Bài tham khảo
Nguyễn
Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời,
Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc
qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử
tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng
một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng
người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến
mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm
cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc
bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ
những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn
liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc
chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong
tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh
hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên
lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật
của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa
Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào
trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa
khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
1) Vẻ đẹp khí phách
Ngay từ đầu tác
phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua
lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi
như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp
mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây
không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà
là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng
phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt
phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.Huấn Cao mang cốt cách ngạo
nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường
thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân
luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn
đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân
vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém,
là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là
một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống
ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở
Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất
khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời. Là một kẻ sĩ dám xả
thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía nhân dân để chống lại triều đình phong
kiến mục nát đương thời, trở thành “người đứng đầu bọn phản nghịch”. Trong tâm
hồn quản ngục thì Huấn Cao là một con người “chọc trời quấy nước” coi thường
cường quyền bạo lực, “chẳng biết có ai nữa” trên đầu mình. Với thầy thơ lại thì
Huấn Cao “văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Với bọn lính thì Huấn Cao là “thủ
xướng”, “hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn”. Cách nhìn nhận ấy của
ngục quan, của viên thơ lại, của bọn lính đều cho thấy Huấn Cao là một lãnh tụ
của cuộc khởi nghĩa nông dân, tiếng tăm lừng lẫy; khi trở thành tử tù vẫn được
người đời khâm phục hoặc kinh sợ! Nguyễn Tuân miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim
dài đến tám thước, nặng đến bảy tám tạ “đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn”,
miêu tả cái “dỗ gông” với “một trận mưa rệp” trước cửa ngục và trước mũi bọn
lính, điều đó cho thấy Huấn Cao và các đồng chí của mình vô cùng hiên ngang,
bất khuất, coi thường mọi nhục hình, đày đọa, trước cái chết vẫn ngẩng cao đầu!
Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước
cường quyền bạo lực: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Chỉ bằng một vài chi tiết nghệ thuật rất chọn lọc
về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài lời nhận xét bình phẩm, Nguyễn
Tuân đã khắc họa thành công tinh thần “đại vô úy” của Huấn Cao. Nét vẽ chân
dung của Nguyễn Tuân rất độc đáo và có thần!
2)Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao
còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài
viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung
Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một
thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp
của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp
đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo
là có một báu vật trên đời". Quản
ngục cũng là một người có học đã “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Đã từ rất
lâu, “từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một
ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết..
Huấn Cao là một khách tài
tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp mà còn có một tâm hồn thanh cao,
trong sạch. Ông tự biết “chữ thì quý thật”, nhưng không bao giờ “vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Điều đó cho thấy, Huấn Cao đi “làm giặc”
không phải “mưu bá đồ vương” mà chính là để “cứu vớt dân đen đang đói khổ”; chữ
là một thứ “vật báu” nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu
sang. Đúng, “tính ông vẫn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Huấn
Cao vừa có tài vừa có cái tâm đẹp.
3) vẻ đẹp thiên lương
Huấn Cao là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng:
“ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối
bao giờ”. Huấn Cao coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ,
mến mộ những con người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ai đã từng
được ông Huấn tặng chữ? “Nhất sinh” ông mới viết có hai bộ tứ bình và một bức
trung đường để tặng ba người bạn thân. Và ai đã được ông Huấn Cao cho chữ? Khi
chưa hiểu “lòng dạ” quản ngục thì ông Huấn nặng lời “cố ý làm ra khinh bạc đến
điều”. Nhưng khi qua lời thỉnh cầu viên thơ lại, ông Huấn biết quản ngục là một
con người rất yêu quý cái đẹp, khao khát có “chữ” để “treo ở nhà riêng mình”
thì ông đã xúc động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người.
Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý
như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Trước lúc bước
ra pháp trường, Huấn Cao đã cho chữ quản ngục, đó là một nghĩa cử. Trên bình diện
“phép nước”, quản ngục và tử tù là đối địch, nhưng trên lĩnh vực nghệ thuật thì
hai người lại là tri âm. Khách tài tử không thể nào “phụ một tấm lòng trong
thiên hạ” là vậy. Vượt qua được cái đáng sợ của “phép nước”, phá tan được hàng
rào vị thế hiện tại trong xã hội, Huấn Cao và quản ngục đã trở thành đôi bạn
tri âm, giữa tài tử và người liên tài. Sức mạnh nghệ thuật hay ánh sáng tâm hồn
kẻ sĩ đã tạo nên sự kì diệu ấy?
4) Cảnh cho
chữ là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”
Hai
con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã
huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một
không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao:VIẾT THƯ PHÁP.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản
làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và
ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách
rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm;
tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện,
đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh
sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ
không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa,
chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn
thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh
đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong
sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều
tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối
cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ,
nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống
lương thiện... Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người
thiên lương” (Lưu Thế Quyền)
Viết thư pháp là nơi
thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng.
Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn,
phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên
đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi
mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống,
cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì
thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành
ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy
nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ”mà
chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở
ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy
nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ,
kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét
chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn
ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao.
Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong
cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo
lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó
không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và
biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái
đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân
cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính
cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này,
cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản
ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt
ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần
khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người
tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
Lời khuyên của Huấn
Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của
con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này
không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó
nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn
Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào
lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho
lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời
khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái
người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này
xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến
thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới
đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
5. Tư tưởng của nhà văn gửi gắm.
-
Một tinh thần dân tộc sâu sắc: Yêu mến và trân trọng nét đẹp của truyền thống
văn hoá dân tộc.
-
Lòng say mê cái đẹp và đi tìm cái đẹp ở tài năng, đạo đức và nhân cách con
người.
-
Khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương và nhân cách ngay trong hoàn
cảnh ngặt nghèo, ngay ở môi trường của cái ác và bóng tối.
6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao.
- Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ "liên tài tri kỉ".
- Miêu tả Huấn Cao, để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm và khí phách ngang tàng, Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp, cái cao cả với phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ...). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp "nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người") với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong thái của người cho chữ (đường hoàng) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm)...
- Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ Hán Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một "thời vang bóng" ở hình tượng Huấn Cao.
- Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ "liên tài tri kỉ".
- Miêu tả Huấn Cao, để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm và khí phách ngang tàng, Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp, cái cao cả với phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ...). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp "nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người") với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong thái của người cho chữ (đường hoàng) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm)...
- Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ Hán Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một "thời vang bóng" ở hình tượng Huấn Cao.
Nói
tóm lại, HC là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm
tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khac đi, HC dưới ngòi bút của
Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đày rẫy
những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người sống
vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, đẻ vĩnh cửu, để bất
diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo
lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng HC với vẻ đẹp rực rỡ
tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội. NT đã thể hiện niềm cảm phục sâu
sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi
bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi
bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói Chữ người tử tù với
bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và
góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vơì của HC, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương
một thời vang bóng và nó mãi mài vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét