NGỮ VĂN 12
______________
ĐỀ:
Phân tích đoạn thơ sau trong
bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.............................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
DÀN Ý:
I. MỞ BÀI:
- Quang Dũng
là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn,
vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng trước hết Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn
và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến.
- Những chiến
sĩ Tây Tiến luôn là kỉ niệm đẹp trong phần đời binh nghiệp của ông. Họ là
những người đồng chí chiến đấu trong hoàn
cảnh hết sức khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng trong họ luôn
hừng hực một lí tưởng cao đẹp “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
- Khi phải
rời xa đơn vị, Quang Dũng đã trút cả tâm
hồn, nỗi nhớ của mình vào bài thơ Tây
Tiến. Tám câu đầu của bài thơ diễn tả nỗi
nhớ da diết về đồng chí đồng đội,
về những nơi mà Quang Dũng đã cùng họ đi qua, hoạt động và chiến đấu.
“Sông
Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.............................................
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
II. THÂN BÀI:
1. Vài nét về đoàn binh Tây Tiến:
- Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội
thành lập từ đầu năm 1947, chiến đấu trên địa bàn rừng núi rất rộng lớn và hiểm
trở (miền Tây Bắc Bộ Việt Nam và vùng Thượng Lào).
- Phần đông
chiến sĩ Tây Tiến vốn là học sinh, thanh
niên Hà
Nội.
- Sinh hoạt
của họ vô cùng thiếu thốn, gian khổ nhưng họ vẫn lạc quan và dũng cảm chiến
đấu.
- Quang Dũng
làm đại đội trưởng ở đoàn quân Tây Tiến
từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác.
- Bài thơ
được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh - một ngôi
làng ven bờ sông Đáy - nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông
đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng
về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì
nhà thơ cho rằng chỉ với hai từ “Tây Tiến”
cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ không cần đến từ "nhớ"
2. Nỗi
nhớ của nhà thơ:
- Là một
người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong
lòng nhà thơ. Một thời gắn bó sâu đậm với Tây
Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông không khỏi bồi hồi, xúc
động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng
trào trong kí ức cuả nhà thơ.
- Bài thơ mở đầu là nỗi nhớ da diết, nỗi
nhớ bao trùm cả không gian, thời gian, cảnh vật:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Con sông Mã là một chứng nhân gắn bó
với bao kỉ niệm của những người lính Tây
Tiến. Theo dõi mạch thơ của bài thơ Tây
Tiến, người đọc cảm nhận được rằng nó không còn là con sông vô hồn của địa
lí, mà là dòng sông chảy dọc suốt cả bài thơ, chở nặng những nỗi niềm cảm
xúc khó quên, những kỉ niệm buồn vui mà Tây Tiến đã đi qua.
+ Câu thơ mở đầu diễn tả nỗi niềm
thương nhớ ấy của nhà thơ. Hiện tại, sông Mã, Tây Tiến đã xa rồi, nhưng tất cả vẫn còn đây mênh mang một nỗi nhớ.
Nỗi nhớ dâng trào không sao kìm nén nổi, nhà thơ cất lên thành tiếng
gọi: “Tây Tiến ơi!”. Tây Tiến ngày nào còn “Súng bên súng đầu sát bên đầu – Đêm đắp
chung chăn thành đôi tri kỉ” (Đồng
chí – Chính Hữu), mà giờ đây tất cả đã xa.
Song dù kí ức
đã lùi vào dĩ vãng nhưng kỉ niệm thì
không thể xóa nhòa, cũng giống như Chế Lan Viên khi nhớ về Tây Bắc:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”
(Tiếng
hát con tàu).
Như vậy, "Tây Tiến" không chỉ để gọi
tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn "tri âm tri kỉ" để nhà thơ giãi bày tâm sự.
+ Điệp từ “nhớ” trong những câu thơ của Quang Dũng được kết hợp với những âm “ơi,
chơi vơi, hơi” . Tất cả đã tạo nên một âm hưởng tha thiết ngân
mãi trong lòng người đọc, vọng mãi vào thời gian năm tháng, tô đậm các cung bậc
cảm xúc.
+ Hai chữ “chơi vơi” trong câu thơ như vẽ ra được
trạng thái của nỗi nhớ. Đó là một nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh trong
tâm tư những chàng trai Tây Tiến như
Quang Dũng. Đó còn là một nỗi nhớ khó định hình, định lượng nhưng nỗi nhớ ấy có
sức lan tỏa, bao trùm cả không gian, thời gian, choáng hết những tâm tư tình
cảm của nhà thơ.
Ca dao ngày
xưa cũng có câu diễn tả rất hay về nỗi nhớ “chơi
vơi” ấy: “Ra về nhớ bạn chơi vơi…” Sau này, ông hoàng trong thơ tình yêu
Xuân Diệu cũng cảm nhận được nỗi nhớ chơi vơi của lòng mình: “Tương
tư nâng lòng lên chơi vơi…” Xuân Diệu đã diễn tả thật hay và đắc nỗi
buồn man mác khó tả của người đang yêu cũng như Quang Dũng diễn tả nỗi nhớ của
mình vậy.
+ Trong tâm tưởng của nhà thơ, kỉ niệm này liên
tiếp gọi dậy những kỉ niệm kia, tựa như những đợt sóng luôn mãi tuôn trào. Quang
Dũng đã liệt kê liên tiếp trong đoạn
thơ là những địa danh, những kỉ niệm về nỗi nhớ: nhớ sông Mã, nhớ Tây Tiến, nhớ rừng núi, nhớ Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông…
+ Đó là những
địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi mà họ đi qua và dừng
chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc là nói đến
vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân,
người lính Tây Tiến rất vất vả đi
trong đêm dày đặc hơi sương, không nhìn rõ mặt nhau.
+ “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ
quốc đã làm cho những người trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất
khuất hơn.
+ Quang Dũng
đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự
khắc nghiệt cuả núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về
“sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết
trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Có lẽ thiên
nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành một kí ức khó phai
trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở.
- Bốn
câu tiếp theo diễn tả rất rõ kỉ niệm ấy:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngởi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Bốn câu thơ
mang vẻ đẹp của thơ tứ tuyệt “thi trung
hữu họa”, một bức tranh thiên nhiên hoành tráng: núi, dốc, vực, rừng… hiểm trở, dữ dội, thơ mộng.
+ Các từ ngữ giàu tính tạo hình
được huy động: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời… diễn
tả thật đắc địa cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ, hiểm trở.
Có những lúc
người lính Tây Tiến phải vất vả để
trèo lên đỉnh núi chạm đến mây trời. Độ cao của núi như chọc thủng trời mây “súng ngửi trời”; độ sâu, độ cao của dốc
thì thăm thẳm “Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống”, thế núi như vút lên dựng đứng rồi đột ngột đổ xuống bất ngờ,
nguy hiểm, kết hợp với cái “heo hút”,
hoang vu, vắng lặng đến rợn người của núi rừng.
+ Quang Dũng
đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm”
mà không dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận
và thấy được bề sâu cuả nó nhưng “thăm
thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy
gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã
làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội cuả núi rừng Tây Bắc.
+ Nhà thơ
cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên
cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong
lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu.
+ Thơ
Quang Dũng không chỉ thấm đẫm chất họa mà còn rất giàu tính nhạc. Chất nhạc
trong bốn câu thơ được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt qua những thanh trắc
đậm đặc: dốc, khúc khuỷu, thẳm, hút,
súng, ngửi… khiến tiết tấu câu thơ đọc lên trúc trắc như chính sự khó
khăn, hiểm trở của con đường hành quân cứ tăng mãi lên.
+ Nhưng câu
thơ thứ tư đột ngột lắng xuống toàn những thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Nhịp
thơ nhẹ nhàng, êm ái, cảm giác như trút hết cả những mệt mỏi, căng thẳng
khi con người chiếm lĩnh được đỉnh cao, phóng tầm mắt ra bốn hướng nhẹ nhõm,
sảng khoái ngắm nhìn trong không gian bao la, mịt mùng sương rừng, mưa núi thấp
thoáng những ngôi nhà Pha Luông như đang bồng bềnh trôi giữa mù mưa xa khơi. Cảnh
vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Sự phối màu, hòa âm của Quang Dũng thật tài hoa,
độc đáo.
+ Nghệ
thuật “vẽ mây nảy trăng” được cảm
nhận rõ khi nhà thơ tả núi rừng hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội cũng để làm
nổi bật lên hình ảnh người lính Tây
Tiến trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi
sinh nhưng vẫn lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, lãng mạn.
=> Tám câu thơ đầu cuả bài thơ Tây Tiến
là nhỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết
đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành một kí ức xa xôi trong
tâm trí nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính Tây Tiến nói riêng
và cuả những người lính nói chung. Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút cuả lãng
mạn, trữ tình cuả Quang Dũng đã trở thành một kiệt tác cuả mọi thời đại. Cảm
hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ.
III. KẾT BÀI:
- “Tây Tiến” là một bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn tài hoa,
lãng mạn cuả người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức
tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí
thức yêu nước vô danh.
- Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt
tác cuả Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong
nhã.
------------------------------------------------------------------------
Đề:
Đề:
Phân tích hình tượng
người lính Tây Tiến trong đoạn thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
........
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
I. Mở bài:
- Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua
đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng
văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm
hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì
nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.
- Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã
dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài
đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm
gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn
quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ
oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hnội dáng kiều
thơm
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh
về đất
Sông Mã gầm lên khúc
độc hành"
II. THÂN BÀI:
a. Trước khi đi vào phân tích đoạn thơ, ta cần biết
một chút về đoàn binh Tây
Tiến:
- Đầu năm
1947, sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc vừa bùng nổ, một đơn vị bộ đội được
thành lập, từ Hà Nội hành quân về biên giới phía Tây, có nhiệm vụ vừa cùng với
bộ đội Lào kháng chiến, vừa chặn đánh mũi tiến quân của giặc Pháp từ Thượng Lào
vào nước ta. Đó là binh đoàn Tây Tiến.
Những ngày đầu kháng chiến, cuộc sống của những anh bộ đội đã cực kì gian khổ,
những ngày hành quân giữa núi rừng biên giới phía Tây càng gian khổ bội phần.
- Điều đặc
biệt nhất của đoàn quân Tây Tiến ấy
là hầu như tất cả người trong đơn vị đều từ
Hà Nội ra đi, cái chất chung của đơn vị là “chất Hà Nội”. Quang Dũng, vốn đã sống nhiều năm ở Hà Nội, trở
thành một đại đội trưởng của đơn vị. Đoàn quân Tây Tiến tồn tại không lâu, chỉ đến đầu năm 1948 thì hoàn thành
nhiệm vụ, được rút về nước, giải thể để thành lập đơn vị mới.
- Riêng
Quang Dũng, chuyển công tác sang làm văn hoá văn nghệ tại Quân khu. Chính ở
đây, nơi một làng quê có tên là Phù Lưu Chanh, vào khoảng cuối năm 1948, nhớ về
đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ Nhớ Tây
Tiến, về sau đổi thành Tây Tiến.
b. Bức chân dung người chiến sĩ với những nét độc đáo cả ngoại hình lẫn
nội tâm:
- Bức
tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét
nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người
lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong
khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước
thì ở đây là hình ảnh đoàn binh với những nét đặc biệt về ngoại hình.
- Đây là hai nét về ngoại hình của họ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
+ Giống
như một lời định nghĩa, Tây Tiến là một
đoàn binh của những người không mọc tóc. Thật độc đáo, đến như là quái dị.
Nhưng ở đây, đằng sau sự độc đáo ấy là sự thật của cuộc đời, hào hùng và bi
thương.
+ Có một
thời của cuộc kháng chiến chống Pháp, gian khổ thiếu thốn đến vô cùng, anh bộ
đội còn có những tên gọi rất ngộ nghĩnh: Vệ
trọc, Vệ túm. Vệ trọc bởi vì
thiếu ăn, đau ốm, tóc rụng hết, phải trọc đầu. Vệ túm bởi vì áo quần rách rưới, phải túm trước túm sau.
+ Quang
Dũng không nói vệ trọc mà nói không mọc tóc vì cách nói này độc đáo
hơn, đậm chất Tây Tiến hơn, ngộ
nghĩnh mà cũng ngang tàng hơn. Nhà thơ như muốn nói: anh bộ đội ở đâu cũng gian
khổ, thiếu thốn, nhưng không đâu bằng Tây
Tiến. Hơn nữa, những con người Tây
Tiến là những con người đặc biệt không mọc tóc.
+ Cách nói
của Quang Dũng là sự thể hiện tinh thần lãng mạn của những con người luôn luôn coi
thường gian nan, có thể đùa cợt với gian nan, lấy gian nan làm chất men,
chất thơ cho cuộc sống.
- Thêm một nét độc đáo nữa trong ngoại hình của
những người chiến sĩ:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
+ Đã “đoàn binh không mọc tóc”, bây giờ lại
còn là “quân xanh”, tức đoàn quân màu xanh.
+ Có người
hiểu rằng, đây là cách nói màu xanh của
lá nguỵ trang mà các anh bộ đội ta vẫn khoát lên người trong khi hành quân.
Nhưng nếu chỉ như thế thì đâu còn là nét riêng của bộ đội Tây Tiến, thì còn gì là mạch cảm xúc độc đáo của bài thơ.
+ Quân xanh đây chính là màu xanh của
người bị bệnh sốt rét lâu ngày.
+ Thường
thì với màu xanh này, người ta vẫn thường nói “xanh như lá”, Quang Dũng chỉ đổi một từ thôi: xanh màu lá, nghĩa là xanh
màu của sự sống.
+ Nhưng
thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến
binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh
như hổ báo, hùm beo.
+ Cái giỏi
của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn
gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc
rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ
những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên.
+ Vì thế
mà nét tiếp theo mà tác giả khắc hoạ về những người chiến sĩ là dữ oai hùm, có
cái oai phong dữ dội của hùm beo, của những đoàn quân mạnh.
+ Thủ pháp
tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân
xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần
của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ
không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải
muốn "động vật hoá" người
lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh
quen thuộc trong thơ văn xưa:
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu
(Khí thế của ba quân như
hùm beo át cả sao Ngưu trên trời)
(Phạm Ngũ Lão - Thuật hoài)
+ Và ngay
cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn"
cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói
Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm
vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân
xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút
trời Đông Á.
- Từ hai nét về ngoại hình, Quang Dũng nói lên
tâm hồn của người lính Tây Tiến cũng
bao gồm hai nét:
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
+ Đó là
hai nét tương phản đầy chất lãng mạn trong nội tâm người chiến sĩ: Qua biên giới thì “mắt trừng gởi mộng”, nhớ
về Hà Nội thì mơ “dáng kiều thơm”. Đây đúng là con người mẫu của văn học
lãng mạn, say mê sự nghiệp anh hùng nhưng cũng hào hoa, đa tình trong cuộc.
+ Trước
hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người
lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà
Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính
Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua
biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm".
+ Đã một
thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản trong bài thơ.
Nhưng thực ra, nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi
gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt
Nam.
+ Quang
Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong
phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của
non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ
vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội
- Thăng Long xưa.
c. Đây là đoạn thơ hiếm gặp trong thơ kháng chiến, nhưng
là đoạn thơ làm cho bức chân dung người chiến sĩ Tây Tiến trở nên trọn vẹn:
- Nếu như
ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với
những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết
sức lãng mạn thì ở đây, bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng
những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ.
- Nỗi nhớ của Quang Dũng là một câu thơ rất
buồn:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
+ Nhịp thơ
chậm, mỗi từ đều gợi lên cảm xúc buồn. Từ câu thơ, hiện lên một bức tranh rất
buồn: Một vùng đất biên cương, rải rác những nấm mồ hiu quạnh…
+ Từng chữ
từng chữ trong câu thơ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc
hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ
"rải rác" dễ gợi sự hoang
lạnh, lại là "rải rác" nơi
"viễn xứ", những nấm mồ ấy
càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những
người đồng đội.
+ Hình ảnh
này đã có sẵn từ Chinh phụ ngâm khi
nói về người tử trận với những nấm mồ:
Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn sĩ tử gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
- Từ câu thơ rất buồn, Quang Dũng đến một câu
thơ rất đẹp, không phải nói về cái chết mà nói về lẽ sống của con người:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
+ Như một
lẽ sống, câu thơ còn vang lên như một lời thề trước lúc lên đường của các chiến
sĩ Tây Tiến: sẵn sàng chiến đấu dũng
cảm, sẵn sàng hi sinh
+ Cái chết
không còn sự mất mát, một nỗi đau, mà là một sự tự nguyện. câu thơ không chỉ
nói về những người đã chết mà còn nói về những người đang sống, đầy sự cổ vũ.
- Nhà thơ nói tiếp về một sự việc mà có lẽ
nhiều người không dám nói:
Áo bào thay chiếu anh về đất
+ Sự thật
ẩn chứa trong câu thơ là gì? Thiếu cả chiếu, người chiến sĩ Tây Tiến được mai táng với chiếc áo đang
mặc trên người. Đây là những điều rất dễ gây ra cảm xúc ngậm ngùi.
+ Bao
nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của
mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi
trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở
những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại
trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một
chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh
tiễn đưa như thế
" Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán"
+ Cách nói
của Quang Dũng: không chỉ vì thiếu chiếu mà vì đã có “áo bào thay chiếu”. Áo bào là chiếc áo mà các võ tướng ngày xưa
mặc lúc ra trận. Được mai táng cùng với chiếc áo bào, hình ảnh thiêng liêng mà
anh hùng. Cách nói của Quang Dũng có vẻ lãng mạn nhưng sự lãng mạn ở đây là rất
cần thiết và rất phù hợp.
- Đoạn thơ kết lại bằng một câu thơ như tiễn
đưa hồn các chiến sĩ về với đất mẹ:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
+ Câu thơ
gợi ấn tượng: Sau khi người chiến sĩ “về đất”, tất cả núi rừng đều lặng im để
lắng nghe tiếng gầm vang vọng của dòng sông Mã.
+ Nhà thơ
gọi “khúc độc hành”, bởi thông
thường, khi vĩnh biệt những chiến sĩ anh hùng, vẫn có dàn quân nhạc tấu những
khúc quân hành. Đây không có quân nhạc, không có những khúc quân hành thì đã có
khúc độc hành của dòng sông Mã.
+ Đây là
khúc nhạc hùng tráng muôn đời của núi rừng miền Tây, của đất nước quê hương mãi
mãi ca ngợi và nhớ thương những con người anh hùng.
+ Có thể
khẳng định: Trong thơ Việt Nam chưa có bài thơ nào viết về sự hi sinh mất mát
với những câu thơ hùng tráng như vậy.
+ Từ sự
kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang
Dũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa
chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp.
+ Đó là
bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là
bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người
đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc
hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng
ấy.
d. Khổ thơ cuối kết lại bài thơ mà cũng là lời khẳng định về người chiến
sĩ Tây Tiến:
- Khổ thơ
với những câu thơ khẳng định phẩm chất đẹp nhất, đều đọng lại đẹp nhất của đoàn
quân Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
+ “Đi không hẹn ước” là đi mà không nghĩ
đến ngày về, là sẵn sàng một đi không trở lại.
+ Đó là
tinh thần của tráng sĩ Kinh Kha sang Tần:
Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn
(Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi chừ, chẳng trở về)
+ Đó là
tinh thần của người li khách trong thơ của Thâm Tâm:
“- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong,”
(Tống biệt hành)
+ Đó cũng
là tinh thần của người chiến sĩ Việt Nam từng được vang lên trong những câu hát
vào những năm kháng chiến:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi
Là có sá chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi, ra đi, thà chết chớ lui.
+ Điều
tuyệt đẹp ở đây là tinh thần ấy không phải là của riêng ai, mà là của cả đoàn
quân Tây Tiến.
- Tinh thần một đi không trở lại còn được nhà
thơ khắc sâu thêm một lần nữa:
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
+ “một chia phôi”: Là lời khẳng định dứt
khoát, quyết chí ra đi, không lưu luyến bịn rịn, không chút băn khoăn bao giờ
trở lại. Từ “một” ở đây như một cánh
tay giơ lên để khẳng định một lời thề.
+ Nhà thơ
như đang nhớ đến những ngày đầu, những bước chân đầu tiên rời mảnh đất đồng
bằng quê hương để đến với Tây Tiến.
Con đường trước mặt trùng điệp núi non, thăm thẳm mịt mù ở phía chân trời. Kết
quả của câu thơ còn cho ta hiểu rằng, đường lên thăm thẳm, mà cũng là thăm thẳm
một chia phôi , chỉ có chia phôi, chỉ nghĩ đến chia phôi, phảng phất chút buồn
nhưng cũng rất hùng tráng và cảm động.
- Hai câu thơ cuối vang lên như là lời khẳng
định sự trường tồn của đoàn quân Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
+ Lời
khẳng định ấy bắt đầu bằng việc nhắc đến những con người Tây Tiến, nhắc đến mùa xuân ấy, mùa xuân đã rở thành bất diệt.
+ Sầm Nứa
hay còn quen gọi là Sầm Nưa, là tên một địa danh của Lào, kề biên giới Việt –
Lào, thuộc địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến. Mãi mãi những người Tây Tiến
không bao giờ có thể quên được mảnh đất Tây
Tiến, những tháng ngày Tây Tiến.
+ Tại sao
ở đây nhà thơ không dùng từ “lòng” hay một từ nào khác như tâm hồn, trái tim…
mà dùng từ “hồn”? Bởi con người ta có hai phần: phần hồn và phần xác; xác thì
có thể chuyển dịch, có thể rời xa, có thể mất đi, hồn thì mãi mãi vẫn còn. Nhắc
đến hồn là nhắc đến những gì thiêng liêng nhất của con người, phần sâu thẳm
nhất, đẹp nhất nơi mỗi con người.
+ Nói về
con người, Quang Dũng thật sự muốn khẳng định mình: Mãi mãi không quên Tây Tiến, mãi mãi là người lính Tây Tiến. Những người đồng đội Tây Tiến dù mất hay còn, vẫn còn sống
mãi trong tâm hồn nhà thơ.
III. KẾT BÀI:
- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội có thời
gian tồn tại rất ngắn ngủi, chi hơn một năm trời. Thế mà cho đến nay, trải qua
hơn 60 năm, kỉ niệm về nó thật hào hùng, có lẽ không bao giờ có thể phai được.
- Vì sao
vậy? Chỉ cần đọc lại những câu thơ của Quang Dũng đã viết về người chiến sĩ trong
bài thơ Tây Tiến, bất kì người đọc
nào cũng có được câu trả lời.
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
2. Thân bài:
- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình
chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật
đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ
Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được
viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ
kháng chiến từ giã "Thủ đô gió
ngàn" về với "Thủ đô Hoa
vàng nắng Ba Đình".
- Cả bài thơ là một niềm
hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian
khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài
ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.
- Mở đầu đoạn thơ là hai câu
thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
+ Câu thơ đầu tiên sử dụng
câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta",
câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha
thiết nồng nàn. Người ra đi muốn hỏi người ở lại: không biết sau khi ta về
xuôi rồi, người ở lại có còn nhớ ta nữa chăng? Đây chỉ là câu hỏi mang tính tu
từ, hỏi để tạo cái cớ cho người ra đi khẳng định về chính mình. Người ở lại có
thể hiểu rằng: Sau khi ta về xuôi rồi,
không biết người ở lại có còn nhớ đến ta không, riêng ta sẽ nhớ mãi.
+ Với Tố Hữu, người cán bộ
ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp
đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa vừa mang nghĩa chính, vừa mang nghĩa
hoán dụ: Hoa là hoa mà cũng là thiên nhiên nói chung, tượng trưng cho vẻ đẹp
thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo
khổ nhưng đậm đà lòng son.
+ Từ “cùng” tạo nên một sự liên kết mật thiết: giữa thiên nhiên và con
người Việt Bắc là một sự gắn bó, có hoa
là có người, có người là có thiên nhiên. Hoa
và Người quấn quýt với nhau trong vẻ
đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.
Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục
bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.
Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
- Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày
mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong
thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm
áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
+ Ở hai câu thơ, câu trên là hoa, thiên nhiên Việt Bắc:
Rừng Việt Bắc với những màu sắc tiêu biểu là màu xanh. Đúng là hình ảnh của một vùng đất với núi rừng trùng
điệp, hình ảnh luôn luôn hiển hiện trong kỉ niệm của người đến Việt Bắc. Điểm
xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung
linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp
sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,
vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của
bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên
Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm
ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.
+ Câu thơ làm ta liên tưởng
đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
(Cảnh ngày hè)
+ Từ liên tưởng ấy ta thấy,
mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa
hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng
như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
+ Cùng hiện lên với cái lung
linh của hoa chuối ấy là con người của
vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung
cấp cho kháng chiến:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .
+ Trước thiên nhiên bao la,
con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không
khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở
ngang lưng.
+ Ở đây câu thơ vừa mang
ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "đèo
cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do
như ý thơ mà Nguyễn Đình Thi từng khẳng định:
" Núi rừng đây là của chúng ta
Trời xanh đây là của chúng ta".
(Đất nước)
Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững
chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức
tranh mùa đông Việt Bắc.
- Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống
mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
+ Thiên nhiên được miêu tả ở
đây cũng là rừng, nhưng là một thứ rừng mang vẻ đẹp đặc trưng của mùa xuân Việt
Bắc: rừng mơ đang giữa mùa hoa. Ta
thấy: bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh
khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày
xuân mơ nở trắng rừng".
+ "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ
có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc,
màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu
rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu ngọt của hoa mơ . + Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan
tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu
trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
+ Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình
ảnh con người với hoạt động "chuốt
từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng
ngày. Từ "chuốt" và hình
ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo
léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con
người Việt Bắc.
- Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại
sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
+ Thời điểm ve kêu cũng là
thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ
"đổ" là động từ mạnh, diễn
tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Cấu trúc của câu thơ (“Ve” – “kêu rừng phách đổ vàng”) còn
như cho phép người đọc hiểu rằng: tiếng ve kêu khiến rừng phách đổ sang màu
vàng, bởi cái màu vàng của rừng phách nhẹ quá, lung linh quá.
+ Màu của cây phách đổ vàng
cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran
kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một
bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu
sắc và rộn rã âm thanh.
+ Tố Hữu không chỉ có biệt
tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian
và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây
chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
+ Hiện lên trong cái thiên
nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng
rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến:
"Nhớ cô em gái hái măng một mình".
+ Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt
như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng,
gần gũi thân thương tha thiết. Tố Hữu không chỉ nói cô gái, mà nói là “cô em
gái”, rất trìu mến.
+ Hình ảnh thơ cũng gợi lên
được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Tố Hữu gọi việc lấy măng là “hái
măng”, giống như việc hái hoa hái quả. Thật ra, việc lấy măng rừng không phải
là công việc nhẹ nhàng như hái hoa hái quả. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm
cảm thông, trân trọng của tác giả.
- Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng
xanh huyền ảo lung linh dịu ngọt:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
+ Không gian bao la tràn
ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên
từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bốn tiếng “trăng rọi hòa bình” gợi lên hai liên tưởng: Ánh trăng dịu dàng, yên ả toả xuống rừng thu; cũng có thể hiểu là ánh trăng chiếu rọi phong cảnh hoà bình,
trong một đêm thu hoà bình sau khi chiến tranh vừa kết thúc. Ta cũng từng biết
đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
(Tin thắng trận)
+ Ở đây không có tiếng
chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng
hát. Giữa cảnh rừng thu ấy, con người xuất hiện trong bức tranh cũng rất
độc đáo: không thấy hình dáng hay màu sắc, chỉ nhận ra từ âm thanh: “tiếng
hát”. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở
thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của
tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
+ Kết thúc bộ tranh tứ bình
bằng một bức tranh đầy nhân hậu, lạc quan. Ta có thể thấy, cảnh và người Việt
Bắc chuyển từ quá khứ sang hiện tại. Người đọc có thể nhận ra ý đồ nghệ thuật
của nhà thơ vì sao không kết cấu bộ tranh tứ bình theo trình tự bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông để rồi cuối bức tranh phải là mùa đông. Nhà thơ giã từ Việt Bắc
giữa mùa thu. Kỉ niệm sau cùng, đẹp nhất là mùa thu, là phong cảnh hoà bình.
+ Vâng! Bức tranh mùa thu
Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ
bằng tiếng hát "ân tình thủy
chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của
tình yêu quê hương đất nước.
- Về nghệ thuật, đoạn thơ thể hiện rất rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ
tình sâu lắng, tha thiết, ân tình và đậm đà tính dân tộc.
+ Tố Hữu đã sử dụng thể thơ
lục bát quen thuộc vừa dân dã, vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Hơn nữa, nhịp điệu những
câu thơ cân đối, cô đúc, ngân nga, vừa thắt buộc, lại vừa mới mẻ lạ lùng.
+ Tố Hữu cũng chú ý sử dụng
các đại từ ”mình -ta” vừa truyền thống vừa hiện đại.
+ Trong đoạn thơ, điệp từ nhớ được lặp lại nhiều lần, mỗi lần mang
sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng tiến, thể hiện những rung động chân thật,
mặn mà, thắm thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc.
3. Kết bài:
- Bao trùm lên đoạn thơ là
những tình cảm nhớ thương da diết của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh vật
và con người Việt Bắc.
- Với những câu thơ lục bát
nhẹ nhàng, uyển chuyển, cách xưng hô mình - ta thắm thiết, đặc biệt điệp từ nhớ
được lặp lại nhiều lần, mỗi lần mang một sắc thái khác nhau góp phần thể hiện
cụ thể hơn tình cảm sâu đậm của tác giả đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.
Đó không chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là cảm xúc chung của con
người. Đó là đạo lí truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam .
- Có thể nói đoạn thơ này là
một trong những đoạn thơ hay nhất của bài Việt Bắc. Đoạn thơ giàu giá trị tạo
hình, cấu trúc cân đối, hài hoà, cảnh vật thiên nhiên thật đẹp và con người
Việt Bắc thật nghĩa tình và đáng yêu.
__________________
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
……………………………….
Vui lên Việt Bắc, đèo De,
núi Hồng”
Dàn ý:
I. Mở bài:
- Việt Bắc là một bài thơ hay của Tố Hữu và là thành tựu xuất sắc của
nền thơ ca Việt Nam
thời kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 - 1954.
- Bài thơ giống như một “bản tổng kết” về cuộc kháng chiến chống
Pháp, nên trong bài, ta bắt gặp những đoạn thơ miêu tả cực kì sống động về các
giai đoạn khác nhau của cuộc kháng chiến trường kì.
- Đoạn thơ này tác giả tập
trung tái hiện lại không khí hào hùng của cuộc khởi nghĩa khi quân đội ta đã
lớn mạnh đang dốc sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ và đạt được nhiều thắng lợi
trên các chiến trường, tiến đến thắng lợi hoàn toàn.
II. Thân bài:
1. Tám câu thơ đầu:
- Nếu như ở những đoạn thơ
trước mang nặng nỗi niềm về một Việt Bắc với cảnh và người giàu ân tình, ân
nghĩa, thuỷ chung son sắt; một Việt Bắc nghèo mà chân tình, rộng mở… thì ở đoạn
này, nhà thơ dẫn người đọc vào khung
cảnh Việt Bắc chiến đấu và chiến thắng với không gian núi rừng rộng lớn,
với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi,
dồn dập, náo nức.
Cách mạng và kháng chiến đã
xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng; đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của
thiên nhiên, con người Việt Bắc cùng sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn
dân kháng chiến.
- Nhà thơ vẽ lại sống động hình ảnh những đêm Việt Bắc chuyển quân
trong mùa chiến dịch:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất
rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bứơc chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
+ Chỉ vài nét phát hoạ khung
cảnh hùng tráng của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho người đọc cảm
nhận được khí thế hào hùng, mạnh mẽ của
khối đoàn kết toàn dân toàn diện, sự hoà quyện gắn bó giữa thiên nhiên với
con người - tất cả tạo thành hình ảnh đất
nước đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do, vì hạnh phúc, tương lai của dân
tộc.
+ Từ “những” đặt ở đầu đoạn thơ mở ra một bức tranh hoành tráng, một không gian rộng lớn trong những ngày ta
mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên tất cả các nẻo đường Việt Bắc đều sôi động
trong không khí chuyển quân ra mặt trận.
+ Từ “của ta” nằm ở cuối câu thơ thứ nhất thể hiện rõ ý thức làm chủ của những người tham gia
kháng chiến đối với đất nước của mình. Những nẻo đường chiến khu Việt Bắc giờ
đây là “của ta”.
+ Đêm đêm, những bước chân hành quân “rầm rập”, làm rung chuyển cả đất trời,
bước chân của những người khổng lồ đội trời đạp đất, làm nên những kì tích anh
hùng.
+ Tại sao phải là “đêm đêm” mới “rầm rập như là đất rung”? Ban ngày dễ bị địch phát hiện nên màn
đêm bao la trở thành người bạn đồng hành giúp ta chuyển quân ra chiến trường an
toàn. Ta thường bắt gặp điều đó trong thơ ca
thời kháng chiến chống Pháp:
“Những đêm dài hành quân nung nấu”
(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi),
“Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về”
(“Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm)
- Khí thế bừng bừng của quân ta được miêu tả hết sức sinh động:
“Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
+ Các từ láy có giá trị
tượng thanh, tượng hình: “rầm rập”, “điệp
điệp”, “trùng trùng”, biện pháp so sánh “như
là đất rung” diễn tả được không khí hồ hởi, sôi sục trong những ngày hành
quân ra mặt trận làm nổi bật được sức manh cuộn như thác lũ của quân ta. Tưởng
chừng như nơi đây đang diễn ra một cơn địa chấn làm long trời lở đất báo hiệu
những đòn sấm sét sắp giáng xuống đầu thù.
+ Cả một dân tộc ào ào ra
trận. Chúng ta tự hào về các tráng sĩ đời Trần mang chí căm thù "Sát Thát", quyết chiến và quyết
thắng: "Chương Dương cướp giáo giặc
- Hàm Tử bắt quân thù". Chúng ta tự hào về các nghĩa sĩ Lam Sơn:
"Đánh một trận sạch không kình ngạc
- Đánh hai trận tan tác chim muông". Chúng ta càng tự hào về cuộc
kháng chiến nhân dân thần thánh của thời đại Hồ Chí Minh.
+ Ý thơ phô trương sức mạnh hùng hậu của quân đội ta:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Chỉ hai câu mà tạo nên bức
phù điêu điệp trùng, hùng vĩ của Việt Bắc kháng chiến. Không khí kháng chiến,
không khí lịch sử được tái hiện qua màu sắc thần kì sử thi. Đoàn quân ra trận
đông đảo, người người lớp lớp, như sóng cuộn "điệp điệp trùng trùng". Có "ánh sao đầu súng", có "đỏ đuốc", có "muôn
tàn lửa bay", có sức mạnh của bước chân "nát đá".
+ Câu thơ "Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan"
là một tứ thơ sáng tạo, vừa hiện thực vừa mộng ảo. Ánh sao đêm phản chiếu vào
nòng súng thép. Ánh sao của bầu trời Việt Bắc, ánh sao lí tưởng chiến đấu vì
độc lập, tự do như soi sáng nẻo đường hành quân ra trận của anh bộ đội. Ý thơ
khiến người đọc nhớ đến “Đầu súng trăng
treo” của Chính Hữu.
+ Tuy miêu tả cảnh ban đêm
nhưng bức tranh thơ lại giàu chi tiết nói
về ánh sáng: Màu đỏ của “đuốc”,
của “muôn tàn lửa bay” gợi một cảnh
tượng rực rỡ, hừng hực khí thế hào hùng trong những đêm tiến quân ra chiến
trường Điện Biên Phủ.
+ Cách nói thậm xưng “bước chân nát đá” diễn tả sức mạnh đạp
bằng mọi gian khó của đoàn người ra hoả tuyến. Với bước chân ấy, núi rừng như
bừng tỉnh, sục sôi. Bước chân của họ là bước chân của những người đội đá vá
trời, rung chuyển càn khôn, đạp bằng gian nguy làm nên chiến thắng diệu kì,
khiến thế giới phải khâm phục.
- Vẫn cảm hứng sử thi lãng mạn, hào hùng, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh
tương lai tươi sáng:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
+ Nhìn ánh đèn pha của đoàn xe cơ giới xuyên màn đêm của núi rừng
Việt Bắc, tác giả so sánh như tương lai tươi sáng của đất nước. Đó là tinh thần
lạc quan, phấn khởi, tin tưởng ngày chiến thắng đã gần kề.
+ Nhà thơ đã dùng thủ pháp đối lập để diễn tả cảm hứng tự
hào, lạc quan đó. Dù hôm nay và cả nghìn đêm đã qua, dân tộc phải chìm trong
thăm thẳm của khói lửa đau thương; tăm tối mịt mù của chiến tranh, của đói
nghèo thì hãy tin rằng ngày mai, ngày mai chúng ta sẽ chiến thắng. Cuộc đời sẽ
rộng mở, tươi sáng như ánh đèn pha đang chiếu vào bóng tối, sương mù, mở đường
cho xe ta ra mặt trận. Chúng ta sẽ được độc lập, tự do, no ấm.
2. Bốn câu thơ cuối đoạn thơ, một lần nữa Tố Hữu lại
gọi tên các địa danh "chiến thắng
trăm miền" trên đất nước thân yêu. .
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình , Tây Bắc, Địên Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
- Đó là Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Là Đồng Tháp, An Khê. Là đèo De,
núi Hồng. Mỗi địa danh ghi lại một chiến công.
- Nhà thơ có một cách nói
rất hay, rất biến hóa để diễn tả niềm vui chiến thắng dồn dập, giòn giã: "Tin vui chiến thắng... vui về.. vui
từ... vui lên"; vừa biểu đạt được ý: Việt Bắc là đầu não của cuộc
kháng chiến chống Pháp nên tin vui thắng trận khắp mọi miền đất nước báo cáo về
đó, rồi từ đó toả đi trăm ngã, không chỉ có một hai nơi rời rạc, lẻ tẻ mà là "trăm miền", khắp mọi miền đất
nước. Điệp từ "vui" như
tiếng reo mừng thắng trận cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam
- Nói đến Việt Bắc là nói
đến căn cứ địa hào hùng, mồ chôn giặc Pháp, nhà thơ không thể không nhắc đến
những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi của trăm miền hoà với những chiến
công lừng lẫy. Tác giả đã dùng biện pháp liệt kê những địa danh: “Hoà Bình , Tây Bắc, Địên Biên, Đồng Tháp, An
Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” gắn liền với những chiến dịch lớn, những
chiến công lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu mà tên gọi của chúng gắn liền với niềm tự hào của toàn dân tộc.
III. Kết bài:
- Đoạn thơ làm sống lại
không khí hào hùng của một thời lịch sử không thể nào quên.
- Viết về Việt Bắc chiến đấu
và chiến thắng, Tố Hữu không viết riêng về một vùng đất mà trở thành biểu tượng
chung cho sức mạnh kháng chiến, cho linh hồn cách mạng, cho ý chí của toàn dân
trong cuộc trường chinh vĩ đại.
- Đoạn thơ giàu chất “sử ca” thể hiện rõ khả năng tạo được
một bức tranh hoành tráng về lịch sử dân tộc, gợi niềm tự hào về truyền thống
yêu nước, anh hùng của dân tộc ta.