Câu đối và câu đối tết – một thú chơi độc đáo, tao nhã của người
xưa
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
…………………………….
Mỗi năm xuân về Tết đến,
lẩm nhẩm mình ngâm cho mình nghe bài thơ trên của Vũ Đình Liên, lòng tôi lại
nao nao một nỗi niềm khó tả. Tôi nhớ đến câu nói của nhà phê bình Hoài Thanh:
“Tôi thấy Vũ Đình Liên còn bao điều muốn nói, cần nói mà nghẹn ngào không nói
được” (Thi nhân Việt Nam). Đấy có lẽ không phải giản đơn là một nỗi niềm
hoài cổ mà là một dự cảm về sự mất mát, lụi tàn của nền văn hóa truyền thống
phương Đông trước sức ép của văn hóa phương Tây. Cái thú chơi câu đối Tết độc
đáo, tao nhã ấy chỉ là một trong nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang mai
một dần. Liệu chúng ta có giữ được bản sắc của mình? Ngày nay, ở các đô thị lớn
như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vào những ngày áp Tết, chúng ta cũng thấy có những
khu vực, những đoạn đường nhộn nhịp, sôi nổi với những gian trưng bày thư pháp,
viết câu đối. Số người trẻ tuổi tham gia hoạt động văn hóa đáng quý này khá
nhiều. Tôi thấy vui nhưng cũng hơi thấy tiếc. Vui vì thấy một nét đẹp văn hóa
truyền thống đang dần sống lại. Còn tiếc là vì các “ông đồ” ấy phần lớn viết
bằng chữ quốc ngữ La-tinh. Cũng có một số người viết bằng chữ Hán chữ Nôm, tuy
“nội công chưa được thâm hậu” lắm, nhưng vẫn là một tín hiệu đáng quý của văn
hóa Việt. Ước gì những “ông đồ” thời @ có thể kéo những nét sổ, đưa những nét
mác bay lượn trên mặt giấy như phượng múa rồng bay chẳng khác
gì “ông đồ” ngày nào của Vũ Đình Liên. Vì sao tôi lại tiếc và ước như vậy? Ắt
có nguyên do của nó. Những dòng trình bày dưới đây có thể lí giải phần nào điều
đó.
1. Câu đối là gì?
Câu đối là một cặp câu sóng đôi, đối nhau thường
được treo hoặc dán trên cột hoặc tường. Người Trung Quốc gọi là đối
liên 對聯 (liên là cặp câu đối nhau, câu đối; đối là
sóng đôi, đối nhau; đối liên là một cặp câu sóng đôi, đối
nhau), còn được gọi là doanh liên楹聯 (doanh là cột; doanh liên là
cặp câu đối dán lên cột), hoặc doanh thiếp楹帖 (thiếp là
mảnh giấy hoặc lụa nhỏ có viết chữ; doanh thiếp là mảnh giấy
viết câu đối dán lên cột). Người Việt trước đây còn gọi ngắn gọn là liễn(đọc
trại từ liên).
Câu đối là một hình thức
nghệ thuật đặc thù, dùng ngôn ngữ miêu tả sự vật khách quan, biểu đạt tư tưởng
tình cảm của con người. Đối liên vốn có nguồn gốc từ thi 詩, từ 詞, được diễn hóa thành
một loại hình riêng. Nó có đặc điểm của thi, từ, nhưng so với thi, từ thì được
tinh luyện hơn, công phu hơn về tư duy đối ngẫu, vì vậy mà nó có sức hấp dẫn
nghệ thuật đặc thù của riêng mình. Ở Trung Quốc và các nước đồng văn trước đây
như Việt Nam, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, câu đối đã trở thành một thú chơi
nghệ thuật đặc sắc, vừa thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật văn chương, thư
pháp, vừa thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tâm linh của con người.
Do chữ Hán, chữ Nôm là
loại văn tự khối vuông, kết cấu văn tự đặc thù, một chữ dù ít hay nhiều nét đều
nằm trong một ô vuông đồng đẳng (chính vì vậy mà khi viết câu đối bằng chữ quốc
ngữ La-tinh người ta phải sắp xếp chữ thành hình khối vuông hoặc tròn), hơn nữa
nó dùng để ghi loại ngôn ngữ đơn tiết tính, một âm tương ứng với một chữ (tự),
ngôn ngữ lại có thanh điệu cân xứng đối ứng, nên đó là những đặc tính lí tưởng
để hình thành loại hình nghệ thuật đặc thù là câu đối. Về mặt không gian thì
chữ đối với chữ; về mặt âm thanh thì tiếng đối với tiếng; về mặt thanh điệu thì
bằng đối với trắc; ngoài ra còn phải kể đến lối chơi chữ về mặt hình tượng như
chiết tự. Những đặc tính độc đáo đó các ngôn ngữ biến hình, đa âm, sử dụng mẫu
tự ghi âm trải dài theo không gian chiều ngang như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Nga,…không có, và tất nhiên các ngôn ngữ này không thể tạo lập một loại hình
nghệ thuật độc đáo như vậy được.
Câu đối là một loại hình
nghệ thuật điển nhã, tinh luyện, mang tính thẩm mĩ cao, nó đòi hỏi người viết
phải hàm dưỡng đầy đủ vốn từ vựng, các biện pháp tu từ, khả năng diễn đạt,… Các
thủ pháp biểu đạt của nó nhiều hình, nhiều vẻ: hoặc là thuật vật tả cảnh, hoặc
là vịnh vật ngôn chí, hoặc trữ tình ngụ ý, hoặc hoài cổ tỏ lòng, hoặc khen
thiện ngăn ác… Người sáng tác câu đối phải luôn chú ý đến việc lựa chọn, gọt
giũa từ ngữ, sao cho cấu tứ tinh diệu, tạo nên một thế giới đầy ắp tình cảm,
cấu tứ kì lạ, hình tượng tươi mới để hiến tặng độc giả, đưa người đọc vào chốn
danh thắng, khiến người đọc trầm tư mặc tưởng với những ý vị sâu xa, mở lối cho
người đọc đi vào cảnh giới chân-thiện-mĩ. Số chữ trong một câu đối có thể nhiều
ít khác nhau, nhưng chứa đựng đủ cả tư tưởng, tình cảm, kiến thức, trí tuệ, khả
năng ứng xử, tài năng ngôn ngữ của người viết. Làm và đọc một câu đối hay đem
lại sự thích thú, tâm đắc cho người sáng tác và người thưởng thức. Câu đối có
tư tưởng lành mạnh, nghệ thuật tinh diệu, trí tuệ sâu sắc sẽ được người đời lưu
truyền thưởng thức, sống mãi trong tâm thức cộng đồng. Câu đối gắn liền với thư
pháp, với hội họa. Vì vậy, thưởng thức câu đối không chỉ bằng óc, bằng tim,
bằng tai mà còn bằng mắt. Không trực tiếp nhìn những nét chấm, nét sổ, nét
phẩy, nét mác,…đậm nhạt, mạnh mẽ, mềm mại hằn trên thân gỗ; không tận mắt ngắm
những nét du ti xơ xác, mong manh giăng trên mặt giấy thì việc thưởng thức câu
đối thiếu đi một phần nhã thú.
Thời xưa, ở Việt Nam
cũng như Trung Quốc, tư duy đối ngẫu đã được chú ý truyền dạy và rèn luyện ngay
từ lúc trẻ con học khai tâm. Khi đã qua sơ học rồi thì học trò phải tập làm câu
đối để rèn luyện kĩ năng, để chuẩn bị viết thơ phú, kinh nghĩa, văn sách… Vì
vậy mà ngày xưa trong giao tiếp, người ta hay dùng câu đối để thử tài văn
chương chữ nghĩa, trình độ học vấn, năng lực trí tuệ và cả thiên hướng, tương
lai của cá nhân. Ở Việt Nam lưu truyền rất nhiều giai thoại về năng lực ứng đối
mẫn tiệp của các danh nhân trong các cuộc thử tài bằng câu đối, trong đó có
không ít giai thoại nói về tài ứng đối của các sứ thần Việt Nam khi đi sứ Trung
Quốc hoặc các triều thần Việt Nam ứng đối với sứ thần Trung Quốc. Những giai
thoại đó không những ca ngợi tài hoa, trí tuệ của danh nhân mà còn khẳng định
niềm tự hào dân tộc, rằng Việt Nam không thua kém gì Trung Hoa (vô/bất tốn
Trung Hoa).
Giai thoại ứng đối giữa
sứ thần Việt Nam với triều đình Trung Quốc thì rất nhiều. Chẳng hạn, có cả một
chuỗi giai thoại về tài ứng đối của Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Trung Quốc. Tương
truyền năm 1308, Mạc Đĩnh Chi được vua Trần Anh Tông cử đi sứ nhà Nguyên. Do
mưa to gió lớn nên sứ bộ nước ta qua cửa ải trễ ngày giờ hẹn định. Viên quan
giữ cửa ải đóng chặt cửa không cho sứ bộ đi qua. Sau đó họ vứt xuống một vế đối
hết sức hiểm hóc, bảo đối được thì cho qua. Vế đối như sau:
Quá quan trì, quan quan
bế, nguyện quá khách quá quan!
(Qua cửa trễ, cửa quan
đóng, mời khách qua qua cửa!)
Vế ra có 3 chữ quá,
4 chữ quan lặp lại, ý lại thách thức sứ bộ Đại Việt tìm cách
mà qua cửa ải. Mạc Đĩnh Chi thấy đối chuẩn về từ không phải dễ nên linh hoạt
chọn cách đối ý rằng:
Xuất đối dị, đối đối
nan, thỉnh tiên sinh tiên đối!
(Ra đối dễ, đáp đối khó,
mời tiên sinh đối trước!)
Viên quan giữ cửa ải
phục quá, hô binh lính thắp đuốc, mở cửa quan cho sứ bộ Đại Việt đi qua.
Người phương bắc có ý
chê tiếng Việt ríu rít, nên ra đối châm chọc rằng:
Quách khiếu tường đầu
đàm Lỗ luận: Tri chi vi
tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri.
(Đầu tường chèo bẻo bàn Luận
ngữ: Biết thì bảo là biết, không biết bảo không biết, ấy là biết)
Mạc Đĩnh Chi đáp lại
ngay rằng:
Oa minh trì thượng độc Trâu thư: Nhạc dữ thiểu lạc nhạc, nhạc dữ
chúng lạc nhạc, thục lạc?
(Bờ ao ếch ộp đọc Mạnh
Tử: Cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, nào vui hơn?)
Vế đối đọc lên nghe ộp
oạp như ếch kêu, từa tựa như người phương bắc nói vậy. Mạc Đĩnh Chi đã giáng
trả một cách đích đáng cái ý châm chọc, khinh thị của bọn quan lại triều đình
phương bắc.
Cũng với tinh thần “vô
tốn Trung Hoa” như vậy, tương truyền năm 1637, Giang Văn Minh được vua cử làm
chánh sứ sang Trung Quốc. Đoàn sứ bộ đến Yên Kinh rồi nhưng bị cản trở, phải
nằm chờ ở dịch xá mất cả năm trời. Để cho các sứ thần Đại Việt mệt mỏi cả thể
xác lẫn tinh thần, vua nhà Minh lúc ấy là Sùng Trinh mới tiếp đón. Y ngạo mạn,
cố ý ra vế đối nhằm hạ nhục sứ thần Đại Việt rằng:
Đồng trụ chí kim đài dĩ
lục
(Cột đồng đến nay rêu đã
phủ xanh)
Câu này có ý nhắc đến
chuyện Mã Viện trồng cột đồng đô hộ Giao Chỉ thời xưa. Trước sự trịch thượng ra
vẻ “thiên triều” ấy, Giang Văn Minh đã hiên ngang, dõng dạc đối lại:
Đằng Giang tự cổ huyết
do hồng
(Sông Đằng từ xưa máu
vẫn còn đỏ)
Với vế đối của mình,
Giang Văn Minh không những thể hiện bản lĩnh của người đại diện cho quốc gia mà
còn tỏ rõ khí phách, niềm tự hào lịch sử oai hùng của cả dân tộc, đồng thời cho
thấy sự thất bại thảm hại của kẻ mang dã tâm bá quyền nước lớn. Sùng Trinh cay
cú đã ra lệnh bịt mũi, trám miệng rồi mổ bụng moi gan ông, bất chấp luật lệ
bang giao. Vua Lê Thần Tông đã về tận Đường Lâm dự lễ an táng ông và ban khen
“Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ giả không làm nhục mệnh
vua, xứng đáng là bực anh hùng nghìn đời).
2. Những nguyên tắc
của câu đối
Một đôi câu đối gồm hai
vế câu sóng đôi, song hành với nhau. Nếu câu đối ấy do một người sáng tác thì
gọi là vế trên (thượng liên上聯) và vế dưới (hạ liên下聯). Nếu một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi
là vế
ra và vế đối. Một câu đối do một người làm ra cả hai vế, khi
treo hoặc dán lên thì vế trên phải nằm bên tay phải của người đọc và vế dưới
thì bên tay trái (ta có thể gọi là vế phải và vế trái, hoặc vế a và vế b). Thông thường theo nguyên tắc, thì chữ cuối của vế trên phải là
thanh trắc, còn chữ cuối của vế dưới phải là thanh bằng.
Theo nguyên tắc đối ngẫu, người viết câu đối phải tuân theo những nguyên tắc căn
bản dưới đây thì câu đối mới được gọi là đối chỉnh hay đối cân:
- Về mặt từ loại: từ tính của những
chữ đối nhau phải tương đồng, tức danh từ đối với danh từ, động từ đối với động
từ, tính từ đối với tính từ, phó từ đối với phó từ,…
- Về mặt cú pháp: kết cấu cú pháp
giữa hai vế đối phải tương tự, đối ứng nhau, chủ-vị đối với chủ-vị, động-tân
đối với động-tân,…
- Về mặt nhịp điệu: nhịp điệu giữa
hai vế đối phải tương ứng, từ đơn âm tiết đối với đơn âm tiết, song âm tiết đối
với song âm tiết,…
- Về mặt nội dung: nội dung hai vế
đối phải tương quan, phải gắn chặt với chủ đề, ý tưởng phải cân nhau, sóng đôi
nhau.
- Về mặt thanh luật: thanh điệu phải
hòa hiệp, lên bổng xuống trầm tạo nhạc tính, bằng trắc đối ứng nhau, những chữ
tương ứng nhau phải đối nhau về bằng trắc, nếu không đáp ứng toàn vẹn được thì
ít nhất chữ cuối nhịp phải đối nhau, riêng chữ cuối câu thì nhất thiết phải đối
nhau. Ví dụ: B B T T B B T đối với T T B B T T B.
3. Phân loại câu
đối
Thông thường có hai cách
phân loại câu đối, phân loại theo nội dung, mục đích sử dụng và phân loại theo
đặc điểm nghệ thuật. Cách thứ nhất dễ nhận diện và dễ phân loại hơn cách thứ
hai. Vì vậy chúng tôi xin giới thiệu cách phân loại thứ nhất. Theo quan điểm
phân loại câu đối trong hai công trình viết về câu đối của người Trung Quốc là Trung Quốc đối
liên tinh túy và Trung Quốc cổ kim
danh liên giám thưởng, chúng ta có thể phân
câu đối ra thành những loại căn bản sau:
- Xuân liên 春聯: Câu đối Tết, chuyên dùng vào dịp tết Nguyên
đán.
- Tiết nhật liên節日聯: Câu đối lễ tiết, dùng
vào các dịp lễ tết, như tết Thanh minh, tết Đoan ngọ, tết Trung thu, lễ Quốc
khánh, lễ Nhà giáo,…
- Hôn liên婚聯: Câu đối cưới, dùng vào
dịp cưới gả, lấy chồng lấy vợ.
- Thọ liên壽聯: Câu đối mừng thọ, dùng
vào dịp mừng thọ ông bà, cha mẹ, các bậc trưởng thượng.
- Hạ sinh tử tôn liên 賀生子孫聯: Câu đối chúc mừng sinh con, có cháu, mừng tôi
tôi,…
- Vãn liên 挽聯: Câu đối phúng điếu, dùng viếng người đã mất.
- Tu dưỡng lệ chí liên 修養勵志聯: Câu đối dùng để răn giới, khuyến khích tu
dưỡng bản thân hoặc người khác.
- Trú trạch liên 住宅聯: Câu đối dùng để treo trong nhà, ở sảnh đường,
từ đường, phòng khách, trước cổng, trong thư phòng, hoặc mừng tân gia,…
- Danh thắng cổ tích
liên名勝古蹟聯: Câu đối dùng ở những danh lam cổ tích, thắng cảnh,…
- Công sở liên公所聯: Câu đối dùng ở các
công trình công cộng như trường học, trụ sở cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, hội
quán,…
Nhìn chung, việc phân
phân loại câu đối khá phức tạp, ngoài những loại kể trên còn có thể kể ra một
số loại nữa, và trong một loại lại có thể tách ra thành nhiều loại, ngược lại
cũng có thể gom những loại như hôn liên, thọ liên, hạ sinh tử tôn liên kể
trên vào loại hạ liên (câu đối mừng), nhưng nếu như vậy thì
loại này phồn tạp quá.
4. Câu đối Tết
Câu đối tết có từ lúc
nào? Các thuyết đưa ra không giống nhau. Ở Trung Quốc lưu truyền rộng rãi
thuyết cho rằng đối liên có nguồn gốc từ câu đối Tết, và câu đối Tết có nguồn
gốc từ đào phù 桃符. Người ta cho rằng, vào thời Tần-Hán người dân ở Trung Nguyên đã
có tục treo hai miếng gỗ đào trước cửa vào những ngày Tết. Trên hai miếng gỗ đó
người ta vẽ hai vị thần bắt quỷ là Thần Đồ 神荼và Uất Lũy 鬱壘, tôn làm môn thần (thần giữ cửa) để trừ tà đuổi
quỷ, cầu phúc cầu lành. Về sau, người ta chỉ viết tên Thần Đồ và Uất Lũy lên
hai miếng gỗ đào chứ không cần vẽ hình nữa. Đến thời Nam Bắc Triều và thời
Đường thì người ta lại viết câu đối chứ không viết tên hai vị môn thần. Theo
sách Thục đào ngột của Trương Đường Anh thời Tống thì vua Hậu
Thục thời Ngũ đại là Mạnh Sưởng vào ngày cuối năm đã lệnh cho học sĩ viết câu
đối lên đào phù, sau khi đọc cho là không hay, bèn lấy bút tự đề rằng:
新年納餘慶 / 嘉節號長春
Tân niên nạp dư khánh / Gia tiết
hiệu trường xuân
(Năm mới đầy phúc lớn / Tết đẹp gọi
xuân dài)
Tương truyền đây là đôi
câu đối Tết cổ nhất của Trung Quốc. Nhưng cũng có thuyết truyền rằng, người làm
câu đối Tết đầu tiên là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương sau
khi định đô ở Kim Lăng, một năm nọ trước tất niên đã truyền chỉ, bất luận là
quan lại hay dân chúng, trước cửa nhà đều phải dán một đôi câu đối Tết. Đêm trừ
tịch, Chu Nguyên Chương vi hành qua các phố phường để kiểm tra, thấy đâu đâu
cũng ngập tràn màu sắc câu đối Tết. Nhưng khi ông tới cửa một nhà nọ thì thấy
không dán câu đối, lấy làm lạ bèn hỏi thăm, hóa ra nhà kia làm nghề hoạn lợn
nên ngại ngùng không muốn viết câu đối. Chu Nguyên Chương bèn suy tới
nghĩ lui, viết cho nhà ấy một đôi câu đối như sau:
雙手劈開生死路 / 一刀割斷是非根
Song thủ phách khai sinh
tử lộ / Nhất đao cát đoạn thị phi căn
(Hai tay khai mở đường
sinh tử / Một mác cắt lìa gốc thị phi)
Cả câu đối không có từ
nào là “hoạn lợn” hay “thiến heo” cả, nhưng thể hiện đầy đủ cái nghề của nhà
kia, đối ngẫu thì tinh diệu, khí phách lại hùng hồn. Do câu đối Tết được đích
thân hoàng đế đề xướng, nên từ đấy về sau loại hình nghệ thuật này được sử dụng
rộng rãi trong mọi trường hợp. Từ việc chúc mừng đến điếu viếng, từ danh thắng đến
tư gia đều có mặt câu đối.
Ở Việt Nam ta cũng có
khá nhiều giai thoại tương tự như vậy. Tương truyền vị minh quân Lê Thánh Tông
thường đến ngày giáp Tết là ăn mặc giả dạng thường dân, vi hành xem chúng dân
đón năm mới ra sao. Nhà vua thấy một ngôi nhà rách không có câu đối dán ngoài
cửa, hỏi nguyên do thì chủ nhà thưa: “Phận nghèo, lại làm nghề hèn hạ nên không
dám xin chữ ai cả”. Nhà vua hỏi làm nghề gì, thì biết người ấy làm nghề hót
phân. Lê Thánh Tông bèn bảo người hầu lấy bút mực, giấy đào, viết ngay một câu
đối tặng chủ nhà:
身衣一戎衣能擔世間難事 / 手持三尺劍盡收天下人心
Thân ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự;
Thủ trì tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.
Nghĩa là:
Mình mặc chiếc áo trận,
gánh vác hết việc khó trong nhân thế;
Tay cầm thanh gươm dài,
thu lấy cả lòng người dưới cõi trời.
Chiếc áo trận (áo giáp)
giống như chiếc áo tơi của người hót phân. “Nhân tâm” nghĩa đen là lòng người,
nghĩa bóng là cái từ lòng người mà ra. Thanh gươm dài 3 thước ám chỉ dụng cụ
hành nghề của chủ nhà. Câu đối nói về nghề nghiệp hèn hạ của chủ nhà bằng khẩu
khí đế vương.
Còn đây là câu đối Tết
Lê Thánh Tông làm cho thợ nhuộm vải:
天下青黃皆我手 / 朝中朱紫總吾門
Thiên hạ thanh hoàng
giai ngã thủ / Triều trung chu tử tổng ngô môn.
Nghĩa là:
Xanh, vàng trong thiên
hạ thảy đều do tay tớ tạo / Đỏ, tía chốn triều đình tất cả từ nhà
ta ra.
Qua câu đối, nhà thợ
nhuộm hiện lên như vị chúa quyền uy thống lĩnh triều đình, cai quản thiên hạ.
Nhưng có lẽ đọc câu đối
Tết của văn nhân mới thật là thú vị. Ngày xưa, Tết đến, hầu như nhà nào cũng
dán những câu đối mừng năm mới. Đối ở trước cửa, đối trên bàn thờ, trên thân
cột cái. Câu đối như một thức nhắm trí tuệ, một chén rượu tinh thần, một nén
hương tâm linh. Bên cạnh thịt mỡ, dưa hành, cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh mà thiếu câu đối đỏ thì Tết thiếu hồn, mất vía đi nhiều lắm. Do vậy,
cứ mỗi độ xuân về người ta sắm ít lễ mọn đến nhà các cụ đồ xin đôi câu đối,
hoặc ra chợ làng lên phố huyện nhờ mấy cụ đồ tọa bên gốc đa, ngồi bên hè phố
thuê viết đôi ba câu. Rất nhiều người một chữ cắn đôi cũng không vỡ, nhưng
người ta vẫn thích chơi. Bởi vì đối với họ câu đối bày trên bàn thờ, dán trước
cửa nhà ngày Tết thiêng liêng như nén nhang khấn tổ tiên, trời đất. Còn người
có học, những bậc khoa bảng thì tự tay viết lấy dăm ba câu, không những để trang
trí cửa nhà mà còn tỏ rõ chí mình. Cụ Tú thành Nam đã từng khai bút mừng năm
mới rằng:
Nhập thế cục bất khả vô văn tự,
Chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài.
Huống chi mình đã đỗ Tú tài,
Ngày Tết đến cũng phải một vài câu đối.
Và người đời còn lưu giữ
lại không ít những câu đối Tết ngông ngạo của ông, như:
Nực cười thay: nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết;
Thôi cũng được: rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi.
Có lẽ cụ Tú Xương cũng
phần nào “nhiễm” tính ngông của bậc tiền bối Nguyễn Công Trứ. Tương truyền,
thuở hàn vi cụ Nguyễn viết câu đối mừng Tết lưu danh hậu thế rằng:
Chiều ba mươi, nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa;
Sáng mùng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Đọc xong câu đối trên
chắc ai cũng mỉm cười thuộc ngay. Bởi nó sinh động quá, chỉnh quá, độc đáo quá
và…ngông nghênh quá! Ắt hẳn cái phong cách, cái giọng điệu này sẽ khiến người
ta nghĩ đến một nhân vật nữa, đó là một nữ thi sĩ có cuộc đời “nửa hư nửa
thực”, được Xuân Diệu tôn là “Bà Chúa thơ Nôm”. Nhắc đến câu đối trên của
Nguyễn Công Trứ mà không mời bà khai bút mừng xuân thì e rằng thất lễ. Không
khéo bà lại trách khéo: Cái anh Công Trứ kia hình như có mượn của Xuân Hương
tui đôi ba chữ đó! Không tin thử đọc câu đối của tui đi! Nghe nhé!:
Tối ba mươi, khép cánh
càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ đến;
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ
rước xuân vào.
Đúng là giọng điệu lấp
lửng, cà khịa không lẫn được vào đâu của nữ thi sĩ họ Hồ rồi. Nhưng vì trước
đây bà quên “đăng kí bản quyền” nên người ta cứ bảo “tương truyền là của bà”!
Câu đối Tết đáng lẽ ra
phải hớn hở, vui tươi mới phải, nhưng nhiều khi ta thấy người viết bộc lộ một
nỗi niềm xót xa, ngán ngẩm cho nhân tình thế thái, mừng xuân mà sao não nuột
trong lòng. Tú Xương viết:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo;
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi.
Còn cụ Tam nguyên Yên Đổ
cáo quan về vườn, đóng vai một ông già mù, dường như thờ ơ, lãnh đạm cả với Tết
với xuân:
Đêm ba mươi, nghe pháo nổ “đùng!”, ờ ờ... Tết!
Sáng mùng một, vấp nêu đánh “cộc!”, á à... xuân!
Thế rồi ông trách những
người ham vui Tết, ông tự “AQ” với chính mình:
Chúng nó dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó!
Ông đây khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo!
Lẩn khuất đâu đó trong
câu đối là nỗi niềm của một nhà nho tuy trí sĩ, nhưng mà có giả mù, giả điếc
được đâu!
Ngày nay Tết đến, đọc
trên các báo, ta bắt gặp nhiều câu đối hay tươi vui đón xuân, hào sảng tinh
thần dân tộc, thể hiện khí thế tiến lên xây dựng và bảo vệ cõi bờ, như câu sau đây
của Nguyễn Văn Chương, tỉnh Bình Định:
Đại Việt kiên cường, bốn
nghìn năm vững thế núi sông, giặc đến đường nào cũng bại;
Thăng Long mở rộng, trăm
thập kỉ tạo hình đô hội, dân chung một ý tất thành.
Hoặc gửi vào đấy những
vấn đề thời sự hôm nay, hi vọng đất nước mà ông cha để lại vững yên nghìn thuở:
Trên chính dưới liêm, cơ
nghiệp Rồng Tiên bền vạn thuở;
Ngoài hòa trong thuận,
cõi bờ Hồng Lạc vững nghìn thu.
(Tác giả: Lê Trâm Thư,
TP. Đà Nẵng)
Nhưng, bên cạnh đó cũng
có không ít câu bắt ta đối diện với hoàn cảnh khó khăn, vất vả của những người
dân lao khổ, những người đã thầm lặng góp mồ hôi, nước mắt vào công cuộc tiến
lên của đất nước. Đây là hình ảnh của một anh nông dân đi làm công nhân:
Tết với chả xuân, sáng
mì gói tối mì gói, sợ vợ buồn ngán mà không bỏ, nuốt vội để mà no;
Dậu rồi thì Tuất, xưa kéo cày nay kéo cày, lo chủ đuổi mệt chẳng
dám ngưng, làm nhanh không mất việc.
Và đây là tâm sự của một
chị buôn ve chai, đồng nát khi Tết đến:
Số lông vịt xác xơ, tiền chỉ mấy xu, sắm nào được gì, nên không
mong Tết;
Đời ve chai tan nát, tuổi đà dăm bó, cho có ai thèm, mới chẳng
tiếc xuân.
Đất ít người đông, ở quê
chẳng biết làm gì cho đủ sống, biết bao người phải tha phương cầu thực, Tết đến
nào mua được vé tàu về bắc, dẫu có bánh chưng có cành đào nhưng nào thấy xuân
đâu:
Tết tha hương có bánh chưng, bánh tét, sao không thấy Tết?
Xuân viễn xứ cũng cành đào, cành mai, mà chẳng gặp xuân!
Mong rằng “Tân niên hạnh
phúc bình an đáo / Xuân nhật vinh hoa phú quý lai” (Năm mới hạnh phúc bình an
đến / Ngày xuân vinh hoa phú quý về) với tất cả mọi người.
Tân niên sắp đến, xin
hiến tặng độc giả một số câu đối năm Quý Tị để cùng vui Tết mừng xuân:
龍騰豐稔歲 / 蛇舞吉祥年
Long đằng, phong nẫm tuế / Xà vũ, cát tường niên.
Rồng bay, năm sung túc /
Rắn múa, buổi may lành.
龍去神威在 / 蛇來靈氣生
Long khứ, thần uy tại / Xà lai, linh khí sinh.
Rồng đi, oai thần vẫn
còn đó / Rắn đến, khí thiêng đã nảy sinh.
龍留瑞氣常縈戶 / 蛇報福音久駐門
Long lưu thụy khí thường oanh hộ / Xà báo phúc âm cửu trú môn.
Rồng lưu khí tốt luôn
quanh cửa / Rắn báo tin lành mãi tại nhà.
歲辭龍尾春光好 / 山舞蛇姿景色嬌
Tuế từ long vĩ, xuân quang hảo / Sơn vũ xà tư, cảnh sắc kiều.
Năm giã đuôi rồng, nắng
xuân đẹp / Núi lượn dáng rắn, sắc cảnh tươi.
去年龍蟄千重景 / 今日蛇迎四海春
Khứ niên long trập thiên trùng cảnh / Kim nhật xà nghinh tứ
hải xuân.
Năm trước rồng phục muôn
ngàn cảnh / Ngày nay rắn đón bốn biển xuân.
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Hạnh Cẩn-Bích Hằng-Nguyễn Văn-Việt Anh (2000), Giai
thoại Hán Nôm, NXB Văn hóa Thông tin.
2. Phong Châu (2006), Câu đối Việt Nam, NXB Văn Học.
3. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu,
NXB Hội nhà văn.
4. Nguyễn Hoàng Huy (2004), Câu đối trong văn hoá
Việt Nam, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
5. Bùi Văn Nguyên-Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình
thức và thể loại, NXB TP. Hồ Chí Minh.
6. Trần Lê Sáng (chủ biên) (2006), 5000 hoành phi câu đối
Hán Nôm, NXB Văn hóa Thông tin.
7. 柳景瑞/廖福招 (2001), 中国古今名联鉴赏,中州古籍出版社.
8. 王军云 (2007), 中国对联精粹,中国华侨出版社.
Nguồn: Tạp chí Văn hoá - Du lịch số 8 tháng 1.2013