I – Khái quát văn học
Việt Nam
từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975:
1-Vài nét về hoàn cảnh
lịch sử, xã hội, văn hoá :
- Đường lối văn nghệ của Đảng góp phần tạo nên một nền
văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức và quan niệm nhà văn kiểu
mới.
- Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ kéo dài suốt 30 năm.
- Nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và chậm phát
triển. Giao lưu văn hoá chủ yếu giới hạn trong các nước XHCN.
2- Quá trình phát
triển và những thành tựu chủ yếu:
a) Chặng đường từ
1945 đến 1954:
- Một số tác phẩm trong hai năm 1945-1946 phản ánh
được không khí hồ hởi, vui sướng đặc biệt của nhân dân ta khi đất nước giành được
độc lập.
- Từ cuối 1946 đến 1954 văn học tập trung phản ánh
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
+ Truyện ngắn
và kí sớm đạt được thành tựu: Một lần tới
Thủ đô, Trận phố Ràng (Trần Đăng), Đôi mắt, Ở rừng (Nam Cao); Làng (Kim Lân);
Thư nhà (Hồ Phương),…
-Từ năm 1950, xuất hiện những tập truyện, kí khá
dày dặn: Vùng mỏ (Võ Huy Tâm); Xung kích (Nguyễn Đình Thi); Đất nước đứng lên
(Nguyên Ngọc),…
+ Thơ ca đạt nhiều thành tựu xuất sắc: Cảnh khuya,
Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng,..( Hồ Chí Minh), Bên kia sông Đuống ( Hoàng
Cầm), Tây Tiến (Quang Dũng),..Đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
+ Một số vở kịch ra đời phản ánh kịp thời hiện thực
cách mạng và kháng chiến.
b) Chặng đường từ 1955 đến 1964:
- Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát khá nhiều vấn đề,
nhiều phạm vi của hiện thực đời sống:
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp
+ Hiện thực đời sống trước CM
+ Công cuộc xây dựng CNXH
- Thơ ca phát triển mạnh mẽ, nhiều tập thơ xuất sắc
ra đời
- Kịch nói có bước phát triển mới
c) Chặng đường từ
1965 đến 1975:
- Chủ đề bao trùm của văn học là đề cao tinh thần
yêu nước, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Văn xuôi : phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động,
khắc hoạ thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường và bất khuất
:
- Thơ đạt được bước tiến mới trong mở rộng, đào sâu
chất liệu hiện thực đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng và chính
luận. Đặc biệt là sự xuất hiện đông đảo và những đóng góp đặc sắc của thế hệ
các nhà thơ trẻ.
- Kịch nói có những thành tựu mới, gây được tiếng
vang
d) Văn học vùng địch tạm chiếm (1946-1975): Xu hướng văn học tiến bộ, yêu nước và
cách mạng có những đóng góp đáng ghi nhận trên cả hai bình diện chính trị-xã hội
và văn học
3 - Những đặc điểm
cơ bản của văn học Việt Nam
từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975:
Nền văn học mới ra đời từ cách mạng tháng Tám đến nay đã đi trọn một giai đoạn
lịch sử, giai đoạn 1945-1975. giai đoạn này kết thúc cùng với cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Từ 1975 đến nay nó là bước sang một
giai đoạn mới.
Muốn hiểu rõ những đặc điểm của giai đoạn văn học 1945-1975 và đánh giá đúng
những thành tựu của nó, cần đặt 30 năm văn học ấy trong hoàn cảnh đặc biệt mà
nó đã sinh ra, tồn tại và phát triển.
Hoàn cảnh ấy là: nó đã trải qua một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng
ác liệt kéo dài suốt 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong hoàn cảnh
đó, quan hệ quốc tế của nó chủ yế thu hẹp trong vùng ảnh hưởng của phe Xã hội
Chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc. Ngoài ra đây cũng là giai đoạn mà
nền văn học ở bước đầu xây dựng theo mô hình mới, chưa có kinh nghiệm bao
nhiêu, do đó khó tránh khỏi những lệch lạc ấu trĩ.
Đề cập đến đặc điểm của giai đoạn văn học 1945-1975, trước hết cần xác định:
khi nói đặc điểm cơ bản của một giai đoạn văn học thì đặc điểm ấy phải được rút
ra từ sự khảo sát bản thân nền văn học trong giai đoạn lịch sử ấy, chứ không
phải gán cho nó những nhãn hiệu theo mong muốn chủ quan củ mình. Những đặc điểm
nếu thực sự là cơ bản thì phải thể hiện một cách có hệ thống ở giai đoạn văn
học ấy. Cố nhiên vẫn có thể có những yếu tố ngoại lệ, phi hệ thống, nhưng đấy
không phải là những yếu tố phổ biến và chiếm ưu thế. Đã gọi là đặc điểm cơ bản
phải gắn mới dòng chủ lưu, dòng chính thống trong giai đoạnv ăn học. Những đặc
điểm ấy lại phải có quan hệ chặt chẽ với nhau tuân thủ theo qui luật nội tại,
chứ không thể chỉ là những yếu tố ngẫu nhiên, rời rạc xếp cạnh nhau. Chúng phải
so sánh được giai đoạn văn học từ nội dung đến hình thức, từ tư tưởng đến diện
mạo trong quan hệ thống nhất. Và tất nhiên, đặc điểm cơ bản của một giai đoạn
văn học phải giúp phân biệt được giai đoạn văn học ấy với những giai đoạn trước
và sau nó.
Xuất phát từ quan niệm ấy, văn học Việt Nam giai đoạn văn học 1945-1975 có 3
đặc điểm cơ bản:
1.
Một giai đoạn văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu
Cách mạng tháng Tám thành công. Sau hơn 80 năm nô lệ, dân tộc giành độc lập tự
do. Cả nước được cuốn vào một không khí chính trị sôi nổi với niềm vui của
những người lần đầu tiên được làm chủ đất nước mình. Họp đoàn thể. Tập tự vệ.
Chào cờ đỏ sao vàng. Hát “Tiến quân ca”, “Diệt phát xít”. Con
người được hâm mộ nhất lúc bấy giờ là người ở chiến khu về, là cán bộ Việt
Minh, chiến sĩ giải phóng quân. Nhiều ngôn từ chính trị lúc bấy giờ được coi là
dấu hiệu đẹp và sang của người giác ngộ Cách mạng, của con người mới. Người ta
thích sinh hoạt chính trị, thích nói chính trị, thích gọi nhau là đồng bào,
đồng chí để tỏ rằng tất cả cùng chung một Tổ quốc, cùng giác ngộ lý tưởng Cách
mạng và cùng là con người mới của thời đại mới…
Độc lập tự do vừa giành được chưa bao lâu, giặc Pháp lại trở lại, rồi giặc mỹ
kéo vào. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, cái huyệt thần kinh nhạy cảm nhất
của người Việt Nam bị chạm mạnh. Cả nước đứng dậy, tất cả sẵn sàng chống giặc,
sẵn sàng tự tay mình đốt nhà, phá nhà để “vườn không nhà trống”. Thanh niên
tình nguyện vào bộ đội, sẵn sàng chịu mọi gian khổ thiếu thốn, sẵn sàng hi sinh
cả tính mạng. Lợi ích Tổ quốc trên hết, mà lợi ích Tổ quốc trước hết là vấn đề
chủ quyền, là chế độ mới cần giữ lấy, nghĩa là lợi ích chính trị chung của cả
cộng đồng dân tộc. Mọi lợi ích khác đều tạm thời phải xếp lại, phải hi sinh,
trong đó có lợi ích của văn học nghệ thuật. Lợi ích cá nhân lại càng trở nên
tầm thường nhỏ bé, thậm chí vô nghĩa.
Lúc đó Đảng đề ra văn nghệ sĩ phải đứng trên lập trường kháng chiến, phải tuyên
truyền chính trị, cổ vũ chiến đấu, thì những cây bút chân chính đều thấy là hết
sức hợp lý và hợp tình.
Họ sẵn sàng nhập cuộc với tinh thần ấy. Nghĩa vụ công dân là cao cả nhất,
thiêng liêng nhất.
Nói chung tình cảm chủ yế của thơ ca từ năm 1945 đến 1975 là những tình cảm
công dân, tình cảm chính trị tình đồng chí, tình đồng bào, tình quân dân, tình
với Đảng với Bác Hồ, với Miền Nam còn trong tay giặc hay miền Bắc xã hội chủ
nghĩa v.v… Những tình cảm khác không phải không được nói đến, nhưng đều được
nâng lên thành tình cảm chính trị (chẳng hạn nâng tình yêu lên thành tình đồng
chí), được phán xét, đánh giá theo tiêu chuẩn chính trị (tình vợ chồng của chị
Út Tịch chẳng hạn), hoặc phải có tác dụng tô đậm thêm, tình cảm chính trị ở
người anh hùng (Hòn đất, Sống như anh v.v…). Cảm hứng
chính trị trở thành một nguồn thơ lớn nuôi dưỡng nền thi ca Việt Nma suốt ba
thập kỷ mà Tố Hữu là lá cờ đầu.
Con người của đời sống cũng như trong truyện ký đều được nhìn nhận và đánh giá
chủ yếu ở phẩm chất chính trị. Trước hết phải xác định ta hay địch, bạn hay
thù? Nếu là ta thì trình độ giác ngộ chính trị đến mức nào? Người anh hùng hay
con người mới có nghĩa là người giác ngộ lý tưởng chính trị cao nhất. Trong
truyện ngắn, tiểu thuyết, có một hình tượng trở thành mô típ phổ biến: nhân vật
người Đảng (A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, anh Thế
trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, chị Ba Dương
trong Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái v.v…). Đó là
nhân vật cần thiết phải có mặt để nâng sự giác ngộ chính trị của người anh hùng
lên trình độ cao nhất…
Trong giới phê bình văn học chủ yếu tiêu chuẩn chính trị muốn trở thành một
tiêu chuẩn mỹ học cao nhất. Nhiều nhà phê bình coi tiêu chẩn chính trị như tiêu
chuẩn hàng đầu để đánh giá các tác phẩm văn học.
Văn học phục vụ chính trị nên quá trình vận động phát triển hoàn toàn ăn nhịp
với từng bước đi của cách mạng, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước:
ca ngợi Cách mạng và cuộc sống mới (1945-1946); cổ vũ kháng chiến, théo sát
từng chiến dịch, biểu dương các chiến công, phục vụ cải cách ruộng đất
(1946-1954); ca ngợi thành tựu khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc (hợp tác hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa); phục vụ
cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1965); cổ vũ cao
trào chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc (1964-1975).
Tất nhiên, đối với một giai đoạn văn học phục vụ kháng chiến, nhân vật trung
tâm của nó phải là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang và những lực lượng
trực tiếp phục vụ chiến trường: bộ đội, giải phóng quân, dân quân du
kích, dân công, giao liên, thanh niên xung phong v.v… Đó là những con người
đứng mũi nhọn nóng bỏng nhất của cuộc chiến đấu vì lợi ích chính trị thiêng
liêng của Tổ quốc: độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
2.
Một giai đoạn văn học hướng về đại chúng, trước hết là công nông binh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Viết cho ai? – Viết cho đại đa số; công nông
binh. Viết để làm gì? – Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ
quần chúng”[1].
Cách mạng và kháng chiến phải dựa hẳn vào công nông và trước hết nhằm giải
phóng công nông. Cho nên văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu tất phải
hướng về công nông binh. Đây là đối tượng phản ánh, là công chúng văn học, là
lực lượng sáng tác. Đó là phương hướng cơ bản xác định nội dung và hình thức
của văn học giai đoạn 1945-1975.
Quan điểm văn nghệ này của Đảng cũng được các nhà văn chấp nhận một cách tự
giác. Bởi vì họ là những trí thức yêu nước. Họ không thể không cảm phục nhân
dân lao động là lực lượng chủ yếu làm nên cuộc Cánh mạng tháng Tám và sau đó
gánh cả cuộc kháng chiến trên đôi vai lực lưỡng của mình. Trong truyện ngắn Đôi
mắt của Nam Cao, văn sĩ Độ đã “ngã ngửa người ra” trước vai trò vĩ đại của
người nông dân như thế, không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này đã được coi là
bản tuyên ngôn nghệ thuật chung của cả một thế hệ nhà văn đi theo cách mạng và
kháng chiến. Có thể nói, giác ngộ về vai trò vĩ đại của quần chúng nhân dân lao
động, “qui phục” công nông một cách - hoàn toàn tự giác và đầy vui sướng là đặc
điểm tâm lý chung của giới trí thức văn nghệ sĩ yêu nước sau Cách mạng tháng
Tám và trong chiến tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là những năm tháng chống
Pháp. Trước sự nghiệp to lớn của Cách mạng, trước vai trò vĩ đại của nhân dân
lao động, họ cảm thấy chính trị, phục vụ công nông binh, dù chỉ làm “anh tuyên
truyền nhãi nhép” (Nam Cao) nhưng có ích cho kháng chiến, đấy là niềm vinh dự
lớn cho những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nam Cao v.v… họ sẵn sàng từ
bỏ nghiệp văn chương cũ như những “đứa con hoang”, thậm chí những “đứa con tội
lỗi” để “lột xác” và làm lại cuộc đời nghệ thuật mới của mình vì kháng chiến,
vì đại chúng công nông. Họ hăng hái đi tực tế sản xuất và chiến đấu sát cách
với công nông binh để “Cách mạng hoá tư tưởng, quần chúng hoá sinh hoạt”. Đến
khi phong trào giảm tô và cải cách ruộng đất được phát động thì tinh thần hướng
về công nông lại càng sôi nổi hơn nữa. Tình giai cấp giữa những người nghèo khổ
là tình cảm đẹp nhất, cao cả nhất. Con người trong sạch nhất, đang tin cậy nhất
và vì thế cũng đáng tự nào nhất là con người xuất thân từ bần cố nông và giai
cấp vô sản.
Tư tưởng nói trên, trong văn học, thường được phát biểu qua hai loại chủ đề với
những dạng cấu tạo hình tượng phổ biến sau đây:
-
Phê phán cách nhìn có định kiến sai trái đối với quần chúng bằng cách, hoặc đối
lập những nhân vật có quan điểm khác nhau và đề cao quan điểm đúng (Đôi mắt của
Nam Cao), hoặc mô tả sự chuyển biến của một nhân vật nào đấy từ chỗ hiểu sai mà
xem thường quần chúng, đến chỗ hiểu đúng và khâm phục (nhiều truyện ngắn của
Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường, Hoa và thép của Bùi
Hiển, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Mảnh trăng cuối rừng của
Nguyễn Minh Châu v.v…)
-
Trực tiếp ca ngợi quần chúng, hoặc bằng cách xây dựng hình tượng đám đông sôi
động của công nhân, nông dân, bộ đội, dân công… đầy khí thế và sức mạnh (Kí sự
của Trần Đăng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đuốc
dân công tiếp vận của Nguyễn Tuân, Xung kích, Vỡ bờ của
Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của
Võ Huy Tâm, Cửa biển của Nguyên Hồng, Bão biển của
Chu Văn,Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Đêm liên
hoan của Hoàng Cầm, Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của
Tố Hữu, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Đoàn
thuyền đánh cá của Huy Cận, Đường ra mặt trận của
Chính Hữu v.v…); hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh những phẩm chất
cao đẹp của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc (Đất nước đứng lên, Rừng xà
nu của Nguyên Ngọc, Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia
đình của Nguyễn Thi, Hòn đất của Anh Đức, Sống
như Anh của Trần Đình Văn…, Hồ Chí Minh, Sáng tháng năm, Bác
ơi!, Theo chân Bác, Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốtv.v… của Tố Hữu
v.v…).
Viết về quần chúng không thể không gắn với công lao của Cách mạng. Một chủ đề
phổ biến khác của văn học 1945-1975 là khẳng định sự đổi đời của nhân dân nhờ
Cách mạng. Ấy là sự đổi đời từ thân phận nô lệ cực khổ trở thành người làm chủ,
người tự do. Cũng là sự phục sinh về tinh thần, từ chỗ mê muội, thậm chí lạc
đường (do xã hội cũ hoặc tác động của địch) đến chỗ được giải phóng về tư
tưởng, được thanh thoát về tâm hồn (Làng, Vợ nhặt của Kim
Lân, Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Đứa con nuôi, Mùa lạc của
Nguyễn Khải, Xoè của Nguyễn Tuân, Anh Keng của
Nguyễn Kiên, Bão biểncủa Chu Văn v.v…).
Văn học chân chính không thể tạo ra được bằng sự áp đặt từ bên ngoài của
một đường lối văn nghệ nào, cũng không thể được tao ra bằng sự gắng sức của lý
trí đơn thuần. Đó là vấn đề tình cảm, cảm xúc, vấn đề cảm hứng nghệ thuật.
Đường lối văn nghệ phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu hướng về công nông binh,
do phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với bản chất yêu nước
của văn nghệ sĩ, phù hợp với trình độ ý thức và tâm lý của họ trong hoàn cảnh
đặc biệt của hai cuộc kháng chiến, nên đã tạo được nguồn cảm hứng nghệ thuật
thực sự của những người cầm bút trong sáng tác.
Đại chúng công nông binh, như đã nói không phải chỉ là đối tượng phản ánh, ngợi
ca của văn học mà còn là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác cho nó. Đảng rất chú
ý phát động phong trào văn nghệ quần chúng để từ đấy phát hiện và bồi dưỡng
những cây bút nổi lên từ các phong trào ấy, đặc biệt là trong quân đội.
Văn
học viết cho đại chúng tất nhiên phải dễ hiểu và được quần chúng đông đảo ưa
thích. Lối viết gọi là “biểu tượng hai mặt” có ẩn dấu nhiều nghĩa hoặc nghĩa
không rõ ràng thường bị “uốn nắn”, thậm chí bị coi là thiếu tính Đảng (tác phẩm
có tính Đảng chủ đề phải rõ ràng). Tiểu thuyết chỉ viết về hiện thực dưới hình
thức của bản thân hiện thực. Truyện người thật việc thật chép theo lời tự thuật
của các anh hùng chiến sĩ thi đua, có một thời rất được khuyến khích và đánh
giá cao. Thơ không vần của Nguyễn Đình Thi bị phê phán. Lối văn Nguyễn Tuân bị
coi là thiếu trong sáng. Hoài Thanh phê phán hàng loạt những thứ gọi là “rơi
rớt tiểu tư sản” trong văn học kháng chiến: buồn rớt một rớt, ngắm rớt, nhắm
rớt, “Yêng hùng” “rớt…”[2].
Nhiều nhà thơ tìm về kho tàng văn học dân gian. Lưu Trọng Lư, Trần Hữu Thung
tìm đến thể hát dặm Nghệ Tĩnh, Thanh Tịnh soạn những bài độc tấu phát huy điệu
nói lối vui nhộn của hề chèo. Tố Hữu chú ý phát huy các thể điệu dân ca và
những thủ pháp nghệ thuật của ca dao truyền thống… Xuân Diệu ra sức học tập cao
dao, dân ca, đề cao thơ của bần cố nông phát hiện trong cải cách ruộng đất, thơ
“báng súng” của binh nhất, binh nhì… Ông viết: “Muốn làm được thơ khá, thiết
tưởng nên bắt đầu làm được ca dao khá. Vì thơ của ta phải hay trên cơ sở quần
chúng”. (Phê bình giới thiệu thơ v.v…).
3.
Một giai đoạn văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn.
“Ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc hướng về lý tưởng độc lập tự do và
chủ nghĩa xã hội, cả dân tộc chủ yếu sống với tâm lý lãng mạn – một chủ nghĩa
lãng mạn thấm nhuần tinh thần chiến thắng và chủ nghĩa anh hùng. Không có lòng
yêu nước thiết tha và lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng của chiến
thắng và cuộc sống ấm no hạnh phúc thì làm sao có đủ sức mạnh tinh thần vượt
qua mọi thiếu thốn gian khổ, mọi thử thách nặng nền của chiến tranh:
Củ
khoai củ sắn thay cơm,
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát,
Trông trời cao mà mát tâm can…
(Tố Hữu)
Đấy là những năm tháng con người tuy đứng trong gian khổ tột cùng nhưng tâm hồn
chủ yếu sống với niềm tin vui ấm áp của tình đồng chí, của tình dân nghĩa Đảng
và trong ánh sáng rực rỡ của lý tưởng, của tương lai.
Chủ nghĩa lạc quan ấy không phải không có cơ sở thực tế. Bởi dân tộc ta vừa
phải trải qua một quá khứ vô cùng khủng khiếp: chế độ thuộc địa Pháp và Phát
xít Nhật hết sức tàn bạo đã dẫn tới nạn đói khủng khiếp giết chết hơn hai triệu
người trong vài ba tháng. Cách mạng tháng Tám đã cứu dân tộc ta ra khỏi những
ngày khủng khiếp đó mà nói như Nam Cao “có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng
ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” (Đôi Mắt).
Sau chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng, công cuộc khôi
phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội bước đầu, nhờ sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa, quả có làm cho đất nước thay da đổi thịt.
Ngày
xưa nhà tranh vách đất là đặc trưng của làng quê ta:
Mái
tranh ơi hỡi mái tranh
Trải
bao mưa nắng mà thành quê hương.
(Trần Đăng Khoa)
Ngày nay khắp nơi mọc lên nhà gạch, mái ngói (gọi là phong trào “ngói hoá”) tạo
nên tứ thơ đầy tinh thần lãng mạn của Xuân Diệu: bài Ngói mới. Còn
Huy Cận, vốn xưa là một hồn thơ ảo não nhất trong phong trào Thơ mới, nay nhìn
đâu cũng thấy Trời mỗi ngày lại sáng và Đất nở hoa.
Ở Chế Lan Viên, Ánh sáng và phù sa là hình ảnh đất nước mà
cũng là hình ảnh tâm hồn nhà thơ được hồi sinh và thanh xuân hoá.
Nhìn sang các nước bạn thì Liên Xô, Trung Quốc v.v… là những thiên đường đối
với một đất nước còn quá đỗi nghèo nàn và lạc hậu như nước ta. Đó là chủ nghĩa
xã hội, tương lai chắc chắn sẽ thành hiện thực trên đất nước mình (Với
Lênin, Đường sang nước bạn của Tố Hữu, Lại thấy thần tiên đất
nở hoa của Huy Cận, Năm mơi năm Liên bang Xô Viết của
Xuân Diệu v.v…)
Nhìn thực tế dưới ánh sáng của một tương lai như thế, tự nhiên thấy thực tế đẹp
hơn, sáng hơn gấp ngàn lần:
Năm
năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều…
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấp áp làng quê
Chiêm mùa cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
Màu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chay lên non
Đã nghe đất chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người…
Phải nói rằng, những điều Tố Hữu diễn tả đều là sự thật cả. Có điều sự thật ấy
đã được nhân lên với kích thước cao rộng bát ngát của tương lai mà nhà thơ gọi
là “gió ngày mai” và “hồn thời đại”. Và chủ nghĩa lạc quan cũng
được nhân lên với kích thước ấy:
Xuân
ơi xuân, em mới đến dăm năm
Mà cộc sống đã tưng bừng ngày hội
(Tố Hữu)
Muốn
trùm hạnh phúc dưới trời xanh
Có lẽ lòng tôi cũng hoá thành
Ngói mới
(Xuân Diệu)
Cảm hứng lãng mạn không chỉ sôi nổi trong thơ mà cả trong văn xuôi. Từ tiểu
thuyết, truyện ngắn đến bút ký, tuỳ bút (và cả kịch bản sân khấu) đều rất giàu
chất thơ. Và hướng vận động của cốt truyên, của số phận nhân vật, của dòng cảm
nghĩ của tác giả hầu như đều đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm
vui, từ hiện đại tới tương lai đầy hứa hẹn.
Niềm
tin ở tương lai là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn khiến dân tộc ta có thể vượt
lên trên mọi thử thách, tạo nên những chiến công phi thường:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!
(Tố Hữu)
Tin chắc ở tương lai và sống với
tương lai, con người đã đi vào chiến trường, đi vào bom đạn vui như trẩy hội:
Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
-- Sung sướng bao nhiêu, tôi là đồng
đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay
(Chính Hữu)
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây
(Phạm Tiến Duật)
Ta qua sông qua suối
Ta qua núi qua đèo
Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo
(Tố Hữu)
Tóm lại, cảm hứng lãng mạn là đặc
trưng mỹ học của giai đoạn văn học 1945 – 1975 xét trên nét chủ đạo của nó.
Trong giai đoạn văn học này, cảm
hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi, tạo nên một chủ nghĩa lãng mạn
anh hung
Cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt đã
đặt mỗi người Việt Nam bình thường ở vào tình huống không thể không trở thành
anh hùng. Đồng thời, mỗi con người, một cách tự nhiên đều cảm thấy hết sức gắn
bó với cộng đồng và có ý thức nhân danh cộng đồng mà suy nghĩ và hành động. Tổ
quốc còn hay mất, độc lập tự do hay nô lệ, ngục tù? Câu hỏi ấy khiến mỗi người
Việt Nam chân chính tự nguyện dẹp đi tất cả mọi lợi ích cá nhân, cá thể, hy
sinh tất cả, kể cả tính mệnh của mình:
Ôi tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con
sông…
(Chế Lan Viên)
Ra đời và phát triển trong không khí
lịch sử đó, văn học giai đoạn 1945 – 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử,
của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của nó là
những con người đại diện cho giai cấp dân tộc, thời đại và kết tinh một cách
chói lọi những phẩm chất cai quý của cộng đồng.
Tố Hữu nhìn chị Trần Thị Lý không
phải là một cá nhân mà là một con người của dân tộc và nhân loại, với “trái tím
vĩ đại không phải “đập cho em” mà cho “lẽ phải trên đời, cho quê hương em, cho
Tổ quốc, loài người”. Nhà thơ không gọi nhân vật của mình là Trần Thị Lý mà là
“Người con gái Việt Nam”. Ấy là cái thời mà cái cá nhân, cái riêng tư cơ hồ mất
vị trí trong cảm quan thẩm mỹ - cái thời mà Chế Lan Viên gọi là “Những năm toàn
đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt”, nhà thờ cũng nhìn Tổ quốc mình
không phải bằng con mắt cá nhân mà bằng con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa”,
nghĩa là con mắt của lịch sử dân tộc.
Những anh Núp của Nguyên Ngọc, chị
Út của Nguyễn Thi, ông Tám Xẻo Đước của Anh Đức, bà mẹ đào hầm của Dương Hương
Ly… đâu phải chỉ là những cá nhân. Đó là Đất nước đứng lên, là
những Người mẹ cầm súng, là sự vùng dậy của Đất,
là sức mạnh vô tận của Đất quê ta mênh mông… Còn Lê Anh Xuân
thì hình dung anh giải phóng quân hy sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất như một
tượng đài hùng vĩ hiện lên trên cái nền bát ngát của không gian Tổ quốc và thời
gian những thế kỷ. Người chiến sĩ ấy là ai? Không cần biết. Anh không để lại
tên tuổi địa chỉ gì hết. Vì anh là biểu tượng của giải phóng quân, hơn nữa là
“Dáng đứng Việt Nam” “tạc vào thế kỷ”.
Các nhà lý luận thường nói đến
khoảng cách sử thi giữa nhà văn và nhân vật anh hùng. Do khoảng cách ấy, giọng
văn sử thi thường trang nghiêm và thiên về ngợi ca với thái độ chiêm ngưỡng đầy
cảm phục và hình ảnh sử thi thì thiên về vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng.
Nói như thế không có nghĩa là văn
học giai đoạn 1945 – 1975 hoàn toàn không có giọng văn nào khác. Đôi lúc cũng
thấy có xen vào một vài giọng điệu khác như giọng đùa cợt, suồng sã hay châm
biếm mỉa mai… Nhưng những giọng điệu ấy nếu không ném vào những nhân vật phản
diện thì không bao giờ chiếm ưu thế và bị phê bình uốn nắn…
Trong giai đoạn văn học này, khuynh
hướng sử thi không chỉ thể hiện ở những thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, ký
sự, truyện ký hay những bản trường ca. Nó chi phối đến cả những bài thơ trữ
tình ngắn, thậm chí nhiều bài thơ tứ tuyệt:
Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.
(Hồ Chí Minh)
O du kích nhỏ giương cao súng
Thắng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu.
(Tố Hữu)
Ba đặc điểm trên đây của văn học
giai đoạn 1945 – 1975 có quan hệ mật thiết với nhau, là ba phương diện không
tách rời được của giai đoạn văn học này.
Quan hệ giữa ba đặc điểm có tính tất
yếu, tính quy luật. Văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, tất nhiên trước
hết phải nhằm tác động vào đại chúng công nông binh. Và để phản ánh và ngợi ca
cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của cộng đồng dân tộc thì một cách tự nhiên
phải tìm đến khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Đặc điểm thứ ba thể hiện rõ diện mạo
của giai đoạn văn học. Nhưng nó không tách rời hai đặc điểm trên mà như hệ quả
của hai đặc điểm ấy. Vả lại, ngay các đặc điểm một và hai đã bao hàm trong bản
thân chúng không phải chỉ có khuynh hướng tư tưởng mà còn cả khuynh hướng thẩm
mỹ và hình thức nghệ thuật nữa.
Và cả ba đặc điểm, xét đến cùng, đều
bắt nguồn từ đường lối văn nghệ của Đảng trong hoàn cảnh đặc biệt của 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc.
Ba đặc điểm nói trên đã giúp phân
biệt giai đoạn văn học 1945 – 1975 với các giai đoạn trước và sau nó.
4
Thành tựu văn học qua các giai đoạn phát triển văn học
.
Giai đoạn kháng chiến chống thự dân Pháp :
a) Văn
xuôi :
· Truyện
ngắn và kí mở đầu văn xuôi kháng chiến. Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu :
Trần Đăng (Một lần tới Thủ đô ) , Nam Cao (Đôi mắt , Nhật ký ở rừng ),
Hồ Phương (Thư nhà ), Siêu Hải(Voi đi )
· Từ
1950 - 1954. Tiêu biểu là các tác phẩm đạt các giải thưởng văn nghệ 1951-
1952, Vùng mõ – Võ Huy Tâm, Kí sự - Cao Lạng – Nguyễn Huy Tưởng, giải thưởng
văn nghệ 1954 – 1955 Truyện Tây Bắc – Tô Hoài, Con trâu – Nguyễn Văn Bổng.
*
Hạn chế chưa phản ánh nhiều mặt đời sống; chưa miêu tả sâu tâm lý
nhân vật, nhân vật “đám đông” nổi trội
b) Thơ
ca :
*
Có nhiều thành tựu đáng kể với nhiều bài thơ hay : Các bài thơ kháng chiến của
Hồ Chí Minh, Tây Tiến – Quang Dũng, Bên Kia Sông Đuống – Hoàng Cầm, Đất Nước –
Nguyễn Đình Thi,…… có tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
*
Nội dung : Thể hiện sâu sắc lòng yêu nước và căm thù giặc. Khắc họa hình ảnh
nhân dân kháng chiến anh vệ quốc quân, chị phụ nữ, bà mẹ kháng chiến, em liên lạc,…….
*
Nghệ thuật : Hướng về dân tộc, khai thác các thể thơ của dân tộc.
*
Nghệ thuật sân khấu : xuất hiện những hình thức hoạt động mới phục vụ kháng chiến
Giai
đoạn đầu xây dựng hòa bình, chủ nghĩa xã hội (1955- 1964 )
a) Văn
xuôi : mở rộng đề tài
*
Kháng chiến chống thực dân Pháp: Đất nước đứng lên – Nguyên Ngọc, Sống mãi với
thủ đô – Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng – Hữu Mai …
* Hiện
thực trước cách mạng tháng Tám Cửa biển – Nguyên Hồng, Vỡ bờ – Nguyễn Đình
Thi,……
*
Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc Bảo biển – Chu Văn, Cái sân gạch - Đào Vũ,
Mùa lạc – Nguyễn Khải, ……
*
Miền Nam Đất rừng phương nam – Đoàn Giỏi, một số truyện ngắn của Nguyễn Quang
Sáng.
b)thơ
ca :
*
Thơ ca có được một mùa gặt bội thu với đội ngũ sáng tác đông, nhiều tập thơ của
nhiều nhà thơ
*
Nội dung : Ca ngợi đất nước giàu đẹp – tình cảm đối với miền Nam ruột thịt.
c) Nghệ
thuật sân khấu, Kịch nói có những bước phát
3.Giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1955 – 1975)
a) Văn
xuôi :
*
Miền Nam: Truyện và kí phát triển hàng loạt tác phẩm có giá trị ra đời phản ánh
kịp thời các bước phát triển của cách mạng Sống như Anh – Trần Đình Vân, Người
mẹ cầm súng – Nguyễn Thi, Hòn Đất – Anh Đức, …..
*
Miền Bắc: Truyện ngắn và kí phát triển một số tiểu thuyết xuất hiện Nguyễn Đình
Thi (Vào lửa, Mặt trận trên cao) Nguyễn Minh Châu (Cửa sông, Dấu chân người
lính) Hữu Mai (Vùng trời) Nguyễn Khải (Chiến sĩ)
b) Thơ
ca :
*
Có nhiều thành tựu với đội ngũ nhà thơ đông đảo, nhiều gương mặt trẻ, đầy tài
năng xuất hiện
*
Nội dung tập trung vào chủ đề yêu nước, khắc họa hình ảnh đất nước và nhân dân
anh hùng : anh bộ đội giải phóng quân, bà mẹ chiến sĩ, những người phụ nữ, ……
và hình ảnh Việt nam rất đẹp và trang trọng.
*
Nghệ thuật : Phát triển thêm chất suy tưởng và chính luận
c)
Nghệ thuật sân khấu có nhiều thành tựu, phản ánh được xung đột của thời đại. Có
nhiều vở kịch đặc sắc
Þ Văn
học Việt Nam 1945 ® 1975 đã đạt được nhiều thành tựu, có không ít tác
phẩm đặc sắc, có sức sống bền lâu.
III. Một
vài đặc điểm chung
1. Đặc
điểm nổi bật:Lý tưởng và nội dung yêunước, yêu chủ nghĩa xã hội
a)
Văn học thời kỳ này phát triển trong bối cảnh của hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Văn học phục vụ sát sao các
nhiệm vụ chính trị của đất nước nên lý tưởng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội
trở thành cảm hứng cao đẹp, chi phối văn học
b)
Văn học thời kỳ này đề cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, hội
tụ những giá trị văn học của nhiều dân tộc góp phần đánh bại chủ nghĩa thực dân
cũ và mới.
Þ Nền
văn nghệ tiên phong chống đế quốc.
2. Nền
văn học cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc :
a)
Nền văn học mới đã đúc kết và miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp về nhân dân
anh hùn.Con người Việt Nam mới khỏe khoắn, trẻ trung có khát vọng và tầm vóc lớn.
II KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NĂM 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX
1.
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa
Với
chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc mở ra một thời kỳ mới – thời kỳ
độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên từ đó đất nước ta lại gặp
những khó khăn, thử thách mới.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã
chỉ rõ: Đổi mới là “nhu cầu bức thiết, là“vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn
dân tộc.
+
Văn hoá: Tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới.
+
Kinh tế: Chuyển sang kinh tế thị trường.
+
Văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ.
Tóm
lại: Đất nước bước vào công cuộc đổi mới, thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi
mới phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như quy luật phát
triên khách quan của nền văn học.
2 - Những chuyển biến
và một số thành tựu ban đầu:
- Từ sau 1975 :
+ Thơ không tạo được sự
lôi cuốn , hấp dẫn như các giai đoạn trước nhưng vẫn có những tác phẩm được bạn
đọc chú ý.
+ Văn xuôi có nhiều khởi
sắc, bộc lộ ý thức đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời
sống.
- Từ năm 1986 : văn học chính thức bước vào chặng
đường đổi mới, gắn bó, cập nhật hơn đối với những vấn đề của đời sống hằng
ngày. Nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn
- Từ sau năm 1975, kịch
nói phát triển mạnh mẽ.
+ Phản ánh những mặt tiêu cực trong xã
hội(kịch Lưu Quang Vũ, tiểu thuyết Nguyễn Mạnh Tuấn…)
- Nhìn thẳng vào những thất bại trong chiến
tranh(Đất trắng-NT Oánh)
- Thể hiện bi kịch cá nhân(Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành-NM Châu, Thời xa vắng- LLựu, Mùa lá rụng trong vườn- MV
Kháng)
- Tham gia chống tiêu cực(Phùng Gia Lộc-Cái
đêm hôm ấy đêm gì, Hoàng Hữu Các- Tiếng đất, Hoàng Minh Tường-Làng giáo có gì
vui…)
- Đề cao tiêu chí văn hóa và bản sắc dân tộc.
- Mở rộng giao giao lưu với VH thế giới.
- Đổi mới tư tưởng thẩm mĩ, hệ thống thể
loại, thi pháp, phong cách nghệ thuật.
*
Những thành tựu chủ yếu và hạn chế:
1.
Đổi mới về ý thức nghệ thuật:
-
Nhận thức hiện thực không còn đơn giản, xuôi chiều.
-
Con người là một sinh thể phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn phải khám phá.
-
Nhà văn phải cầm bút bằng tư tưởng chứ không chỉ với nhiệt tình cách mạng.
-
Sáng tạo NT không chỉ bằng kinh nghiệm cộng đồng mà còn phải dựa vào kinh
nghiệm cá nhân.
-
Độc giả không phải là đối tượng để thuyết giáo mà là những người bạn để giao
lưu, đối thoại.
-
Người nghệ sĩ phải tâm có tài, có khát vọng sáng tạo để khẳng định cá tính,
phong cách của mình.
2.
Thành tựu:
a.Thơ:
Từ
sau 1975, thơ không tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn như ở giai đoạn trước. Tuy
nhiên vẫn có những tác phẩm ít nhiều tạo được sự chú ý của người đọc: Tự hát
(Xuân Quỳnh), Người đàn bà ngồi đan ( Ý Nhi), Ánh trăng ( Nguyễn Duy), Xúc xắc
mùa thu ( Hoàng Nhuận Cầm)…
Hiện
tượng nở rộ trường ca sau năm 1975 là một trong những thành tựu nổi bật của thơ
ca giai đoạn này: Đất nước hình tia chớp ( Trần Mạnh Hảo), Những người đi biển
(Thanh Thảo), Đường tới thành phố(Hữu Thỉnh), Trường ca sư đoàn(Nguyễn Đức
Mậu)…
b.
Văn xuôi
Từ
sau năm 1975 văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn thơ ca. Về tiểu thuyết có: Đất
trắng( Nguyễn Trọng Oánh), Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Cha
và con và…, Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn ( Ma Văn
Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Người đàn bà đi trên chuyến tàu tốc hành và Bến
quê (Nguyễn Minh Châu), Mảnh đất lắm người nhiều ma(Nguyễn Khắc Trường), truyện
ngắn của NH Thiệp….
Về
phóng sự có các phóng sự tiêu biểu của Phùng Gia Lộc(Cái đêm hôm ấy đêm gì),
Hoàng Hữu Các, Hoàng Minh Tường…
Về
truyện ngắn: Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau(Nguyễn Minh Châu), Tướng về
hưu(Nguyễn Huy Thiệp)…
Kí:
Ai đã đặt tên cho dòng sông(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Cát bụi chân ai, Chiều
chiều(Tô Hoài)…
Kịch:
Phát triển mạnh mẽ với những vở tiêu biểu: Nhân danh công lí (Doãn Hoàng
Giang), Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ)…
Lí
luận, nghiên cứu, phê bình văn học cũng có sự đổi mới với sự xuất hiện của một
số cây viết trẻ có triển vọng.
3.
Những đổi mới về nội dung nghệ thuật
a.
Thay đổi trong quan niệm về con người:
-Con
người ở phương diện cá nhân và đời thường(Mùa lá rụng trong vườn, Thời xa vắng,
Tướng về hưu, Cỏ lau...)
-Con
người mang tính nhân loại(Cha và con và...-N Khải, Nỗi buồn chiến tranh-Bảo
Ninh, Ăn mày dĩ vãng-Chu Lai...)
-
Con người tự nhiên với những bản năng vốn có.
-Con
người tâm linh(Mảnh đất lắm người nhiều ma...)
b.
Đổi mới cảm hứng NT:
-Cảm
hứng thế sự tăng mạnh, cảm hứng sử thi lãng mạn giảm dần.
-Quan
tâm số phận cá nhân
c.
Đổi mới về nghệ thuật:
-Đi
sâu khai thác đời sống nội tâm nhân vật, phát huy bút pháp hướng nội.
-Chú
ý không gian đời tư, mở rộng thời gian tâm lí.
-Sử
dụng đa dạng phương thức trần thuật với giọng điệu phong phú.
-Ngôn
ngữ VH gần với đời thường hơn.
4.
Hạn chế:
-Một
bộ phận giới cầm bút chạy theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng,
biến VH thành một thứ hàng hóa để câu khách.
Tóm
lại:
Từ
năm 1986 ( sau Đại hội VI của Đảng) văn học từng bước chuyển sang giai đoạn đổi
mới sâu sắc, mạnh mẽ và khá toàn diện.
Nhìn
chung VH 1975 đến hết thế kỉ XX đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang
tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Văn học phát triển đa dạng về đề tài, chủ đề.
Cá tính sáng tạo của nhà văn được đề cao. Con người và hiện thực được nhìn
nhận, tiếp cận và khám phá ở nhiều phương diện, trong những mối quan hệ đa
dạng, phức tạp. Văn học có tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn đến số phận
cá nhân ...
Kết luận:
- Văn học VIỆT NAM từ 1945 đến 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những
truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc, và đạt được nhiều thành tựu nghê
thuật ở nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là thơ và truyện ngắn.
- Từ năm 1986, văn học đổi mới mạnh mẽ phù hợp với nguyện vọng của nhà văn
và người đọc, phù hợp với quy luật khách quan của văn học và gặt hái được những
thành tựu bước đầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét