I. Giới thiệu:
- Tác giả : Nguyễn Tuân
là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước
Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư
đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc
qua một số tùy bút: Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà…
- Tác phẩm: Chữ
người tử tù là tác phẩm
đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám, trích trong tập Vang bóng một thời.
- Giới thiệu nhân vật :
Nổi bật trong tác phẩm Chữ
người tử tù là hình tượng viên quản ngục có tâm hồn yêu cái đẹp, quý
trọng người tài khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
II. Nội dung :
1. Khái
quát về nhân vật:
Cảm giác ban đầu khi đọc
Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình
tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Người đọc hầu như không nghĩ điều gì khác ngoài
nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ
kĩ, ta thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta
bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, tinh tế
của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại
cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
2. Lai lịch và ngoại
hình viên quản ngục:
_ Nếu nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ, thì trái lại, nhân vật quản ngục có sự vận động rất thú vị. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho "thiên lương" nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, "cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết".
_ Nếu nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ, thì trái lại, nhân vật quản ngục có sự vận động rất thú vị. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho "thiên lương" nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, "cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết".
_ Quản ngục lại có một ngoại hình ưa nhìn khác hẳn với hình dung của ta
khi nghĩ về một viên quan cai quản trại giam. Đầu ông đã điểm hoa râm, râu đã
ngả màu; bộ mặt tư lự, có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đây là người có đời sống nội
tâm sâu sắc. Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya “băn khoăn ngồi bóp
thái dương” suy nghĩ về người tù nổi tiếng sắp được chuyển đến càng chứng tỏ
tính cách khác thường của ông ta.
3. Hoàn cảnh sống của
viên quản ngục:
_ Quản ngục sống ở chỗ tối tăm, toàn những kẻ “tiểu nhân thị oai” phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ: cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông Huấn Cao, gặp thần tượng của mình trong một hoàn cảnh cực kì éo le: ở chính trại giam mà ông ta quản lí; thần tượng của ông giờ đây là một tử tù, còn ông lại là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra: ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau.
_ Quản ngục sống ở chỗ tối tăm, toàn những kẻ “tiểu nhân thị oai” phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ: cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông Huấn Cao, gặp thần tượng của mình trong một hoàn cảnh cực kì éo le: ở chính trại giam mà ông ta quản lí; thần tượng của ông giờ đây là một tử tù, còn ông lại là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra: ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau.
4. Tính cách:
_ Hình tượng nhân vật quản ngục là một sáng tạo rất sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dẫn dắt bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam với cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách. Viên quản ngục được nhà văn xây dựng như một nhân vật phản diện nhưng cũng là một điểm nhấn độc đáo bởi tính cách đa dạng của ông ta.
_ Hình tượng nhân vật quản ngục là một sáng tạo rất sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dẫn dắt bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam với cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách. Viên quản ngục được nhà văn xây dựng như một nhân vật phản diện nhưng cũng là một điểm nhấn độc đáo bởi tính cách đa dạng của ông ta.
_ Trước hết,
viên quản ngục là người biết quý trọng người tài. Ông sẵn sàng biệt đãi
Huấn Cao bất chấp “phép nước”. Điều này có thể thấy rõ qua thái độ của ông ta khi
nhận tù: ông đã lệnh cho thơ lại “bảo ngục tốt quét dọn lại cái buồng trong
cùng”, ông nhìn sáu tên tù mới vào “với cặp mắt hiền lành” và lòng
kiêng nể tuy cố giữ kín đáo nhưng vẫn bộc lộ rõ ràng.
_ Ông lại còn có “biệt
nhỡn” đối với riêng Huấn Cao khi trả lời câu nhắc nhở của bọn lính: “Việc
quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Suốt nửa tháng Huấn
Cao ở trại giam tỉnh Sơn, ngục quan đã “biệt đãi” người tù đặc biệt này như
một khách quý. Trước mỗi bữa ăn, Huấn Cao đều được thầy thơ lại “dâng
rượu với đồ nhắm”, thái độ thì hết sức lễ phép: “thầy quản chúng tôi có ít quà
mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng”.
_ Quản ngục còn đích thân
đến tận buồng giam tử tù để hỏi ông Huấn: “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi
sẽ cố gắng chu tất”. Đáp lại lòng chân thành của ngục quan, Huấn Cao
lạnh lùng xua đuổi: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây”. Trả lời như thế, ông Huấn đã sằn sàng chờ đợi những trận
đòn thù của ngục quan, nhưng kì lạ thay, viên quản ngục ấy lại làm cho ông Huấn
bực mình thêm khi ông ta chỉ lễ phép lui ra với câu nói: “Xin lĩnh ý”. Kì lạ hơn
nữa là những ngày tiếp theo cơm rượu vẫn được đưa đến đều đều và có phần “hậu
hơn trước nữa”. Những trăn trở, băn khoăn và thái độ “biệt
đãi” nói trên cho thấy quản ngục
có một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất đáng trân trọng. Vì thế, hình tượng
viên quản ngục trên trang viết Nguyễn Tuân hấp dẫn không kém hình tượng người
tử tù độc đáo.
_ Không chỉ biết quý
trọng người tài, quản ngục còn có một tâm hồn nghệ sĩ. Mặc dù chọn nhầm nghề
nhưng ông lại say mê cái đẹp và có sở thích cao quí là chơi chữ. Đó là một sở
thích thanh cao, sang trọng. Biết Huấn Cao là người có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”,
ngục quan ấp ủ trong lòng mơ ước có một ngày xin được chữ ông Huấn, “được
treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Có
được chữ của ông Huấn, đối với quản ngục chẳng khác nào “có một báu vật trên đời”.
+ Cuối cùng, ông Huấn
cũng hiểu sở nguyện của ngục quan khi được thầy thơ lại kể cho nghe tâm sự canh
cánh của ông ta trong suốt bao ngày. Ông Huấn đã chấp nhận cho chữ mặc dù tính
ông vốn khoảnh, chỉ viết chữ cho tri âm tri kỉ. Ông đã nói với thầy thơ lại: “Ta
cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người
như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta
đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
+ Cuộc kì ngộ này còn kết
thúc bằng thái độ thành kính của ngục quan khi nhận lời khuyên chân thành của
tử tù. Ông Huấn đã khuyên ngục quan rời bỏ nghề này, “lui về nhà quê” để giữ
lấy thiên lương rồi hãy nghĩ dến chuyện chơi chữ. Ngục quan đã “vái
tử tù một vái” và nói qua dòng nước mắt: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tất cả những việc làm, lời nói, thái độ khác thường của ngục quan từ khi tiếp
nhận người tử tù Huấn Cao đã cho ta thấy ông ta có một tâm hồn nghệ sĩ, thật sự
say mê, tôn thờ cái đẹp.
+ Bằng ngòi bút lí tưởng hóa,
Nguyễn Tuân còn xây dựng hình tượng viên quản ngục thành người tri âm tri kỉ với
Huấn Cao. Ông ta đối lập với những tàn nhẫn, lọc lừa trong đề lao. Ông
chính là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn
loạn, xô bồ”. Điểm đặc biệt nhất là ông ta ý thức được “mình
đã chọn nhầm nghề mất rồi”, vì vậy đối diện với Huấn Cao, ông ta khép
nép, nhún nhường, trở nên nhỏ bé. Ông cúi đầu trước Huấn Cao bởi ông Huấn là hiện
thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương cao cả. Dòng nước mắt của ông khi nhận
lời khuyên của Huấn Cao chứng tỏ ông đã nhận thức được ý nghĩa sâu xa trong lời
khuyên đó. Cái vái lạy của ông không phải là hành động của kẻ bề dưới sợ hãi
trước uy quyền của kẻ bề trên mà là biểu hiện của một người bị khuất phục, cảm
hóa trước “thiên lương”. Quản ngục đúng là “một tấm lòng trong thiên hạ”
mà Huấn Cao được gặp và họ đã trở thành tri âm, tri kỉ của nhau.
+ Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của
cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục
quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt
đời. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất
thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường.
kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng
biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Có thể nói rằng viên quản ngục
là một vị minh quân biết sử dụng Huấn Cao là một tướng tài.
+ Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn
thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách
cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn
thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm
động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan.
Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá
xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn
ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
+ Ta có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn,
viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên
lương cho trong sạch, lành vững. Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn
Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ
đẹp của một con người được cái thiện dẫn đường, mong muốn một hi vọng không lầm
đường lạc lối.
5.
Cảm nhận về giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
_ Chữ người tử tù là
một tác phẩm có nhiều thành công về nghệ thuật: cách tạo tình huống truyện độc
đáo, nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, đối thoại và độc thoại… Nổi bật
lên trên là cách khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một
loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc
khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc
lịch sử, cổ kính, bi tráng cho nhân vật và tác phẩm. Nguyễn Tuân đúng là bậc thầy
về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội như lời Vũ Ngọc Phan
đã nói: "... văn Nguyễn
Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".
_
Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện
; trong khi đó, hỉnh tượng viên quản ngục vẫn còn ám ảnh người đọc. Ta có thể
tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống
tuổi ấy sẽ từ bỏ cái nghề bất nhân, về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch,
lành vững. Điều đó lí giải vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng của
nhân vật quản ngục như “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc
luật đều hỗn loạn, xô bồ?”. Phải chăng qua nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn
khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì diệu trong việc cảm hóa con người?
III. KẾT LUẬN
Truyện Chữ người tử tù đã được Nguyễn
Tuân sáng tạo nên bằng bút pháp lí tưởng hóa, đậm màu sắc lãng mạn. Hai nhân
vật tưởng chừng ở hai thế giới đối lập cuối cùng lại trở thành tri âm, tri kỉ
của nhau. Nếu Huấn Cao là hiện thân của chân, thiện, mĩ thì quản ngục là con
người được những giá trị cao cả ấy cảm hóa. Có thể nói, quản ngục cũng là một
con người tượng trưng cho cái đẹp, cái thiên lương. Loại “nhân vật thức tỉnh”
như quản ngục đã được ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân bất tử hóa
cùng với hình tượng người anh hùng “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” để khi khép
trang sách lại câu chuyện về họ cứ âm vang mãi trong lòng người đọc.
Cảnh cho chữ là cảnh xưa nay chưa từng có
Trong sự nghiệp Nguyễn Tuân, tập truyện ngắn “Vang bóng một
thời” là một mốc son đậm nét giúp người đọc hiểu và gần Nguyễn Tuân hơn, một
Nguyễn Tuân tài ba, uyên bác và làm chủ gần như tuyệt đối vốn tiếng Việt phong
phú, dồi dào và đầy sáng tạo. Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một
thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó những
yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn
“Chữ người tử tù” là một trong số đó.
1.
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mỹ. Ông
yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mỹ là đỉnh
cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu
tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Nhưng nhân vật hiện lên
trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con
người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường.
Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp
của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông còn kết hợp mỹ với dũng. Truyện ngắn Chữ
người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu
nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân
được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”,
cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên quản ngục.
Trong
“Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói chung,
Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời vang
bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn
với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy
ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn
cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhân vật Huấn
Cao, quản ngục, thầy thư lại là một bộ ba nhân vật mà trong đó chỉ Huấn Cao là
có tên (một cái tên cũng khá mơ hồ gồm tên gọi tắt của chức vụ (Huấn) đi kèm với
họ (Cao)) nhưng vẫn sáng lên như những nốt nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có
thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và hoàn cảnh xã hội nói chung đã giam hãm
những con người trong sạch đó vào cái lồng thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một
không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức phá hoại đối với cái Tài, cái Đẹp, cái
Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư lại là những con người trung gian mà Huấn
Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình lý tưởng đối lập với cuộc sống đang níu giữ,
kéo ghì quản ngục và thư lại xuống. Quản ngục và thư lại sống lẫn trong cuộc sống
đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là nhân vật của
văn học lãng mạn. Huấn Cao sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời khuấy nước
mặc dầu với những hình tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết. Con
người ấy đối lập mình với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức
được mình, ý thức được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với
xung quanh và cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy
thư lại không được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh
của mình đang sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng
lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người (…) của viên quan coi ngục
này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn
loạn, xô bồ”. Họ sống lạc lõng với xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi
nơi họ sống là một nơi “lẫn lộn (…) khó giữ thiên lương”, là nơi mà những cái
thuần khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa cảnh sống đó, nhân cách và tài
năng của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt lên khỏi những ràng buộc
của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông đang ở trong cảnh tù
đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để tả lại khung cảnh
“một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định (…);
bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một
ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”. Những câu văn bay bổng, tài hoa đó đã
nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật lý tưởng của mình.
Truyện
ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác nhau, phân rõ tối
sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và bóng tối luôn tương
phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn Cao của viên quản ngục đã
là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là cái nền nâng đỡ cho hàng loạt
chi tiết sau này để những mảng màu tương phản được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao
cho chữ là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến
thắng cái Ác, ánh sáng đã lấn át bóng tối và quan trọng hơn là sự phát triển của
tính cách nhân vật không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của
nhân vật đã vượt lên trên hoàn cảnh
2. a. Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người
tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”.
Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của khởi nghĩa
nông dân là Cao Bá Quát, một người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để
sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy) Cao Bá Quát trước khi
thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã đưa vào hai tính cách
nổi bật của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát người viết chữ
đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa
thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối
với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
b. Truyện có hai nhân vật chính, một
là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của
Huấn quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà.
Lão coi chữ Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong một tình huống oái oăm
là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu cuộc
khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, “giặc” đang bị bắt giam chờ
ngày thụ hình. Con người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một tên quản ngục đại
diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ,
trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch.
Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng
chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Nguyễn Tuân thích xây dựng
nhân vật trong tình huống phi thường. Một viên quản ngục, tay sai đắc lực cho bộ
máy thống trị lại tha thiết xin chữ một tội phạm. Còn Huấn Cao là một bậc anh
hùng, một nghệ sĩ đâu có dễ dàng cho chữ một kẻ tiểu nhân đang làm nghề tàn ác,
lừa lọc. Vậy mà việc cho chữ trong ngục đã diễn ra. Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh
không vì vàng bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao
coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục
vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn,
bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quí cái đẹp của
chữ nghĩa. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết
đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên
quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị
đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ
thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều,
là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục,
ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng
trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc. Huấn Cao chỉ trọng những tấm
lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quí. Những con người ấy theo Huấn
Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn
của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem
nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
c.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn
giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của anh hùng Cao Bá Quát.
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn Chỉ còn tiến mõ vọng canh, “một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có” đã bày ra. Trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy màng
nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương
phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một
hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong
đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mỹ và cái dũng
hòa hợp “dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo
gông, chân vướng xiềng đang giậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh
ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh ô chữ trên phiến lục óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng.
Viên quản ngục và viên thư lại trở nên bé nhỏ, bị động, khúm núm trước người tử
tù. Nhưng với cách suy tưởng sâu xa hơn, chúng ta có thể hiểu được sự vĩ đại của
viên quản ngục.Ta có thể ví rằng viên quản ngục là một vì vua anh minh và Huấn
Cao là một tướng tài.Vua giỏi phải biết dùng tướng tài.
d.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?”.
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có
phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục
tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người
nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng
và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử
tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những
kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm run run. Điều đó cho
thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải
cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái
cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi
vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người
nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những
kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của
thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử.
Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên
cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là
lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo
lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp
gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên
lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là
hình tượng Huấn Cao đó, khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ
trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng
trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ
run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành
khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.Nhưng nếu không có người cai
ngục biết trân trọng tài năng,thì Huấn Cao cũng chỉ là một Huấn Cao tử tù.
e.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người
tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào
cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có
nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi
tráng toát lên trong đoạn văn.
3. Chữ người tử tù không còn là “chữ”
nữa, không chỉ là mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nói lên những hoài bão
tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của
cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của
tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mỹ và dũng
trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn
Tuân, theo triết lý duy mỹ của Nguyễn Tuân.
“Vang
bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học lãng mạn
1930 – 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên sự thành
công của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương pháp sáng
tác lãng mạn chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng nhà văn đã thực
sự đem chúng ta đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng mạn vượt lên khỏi
hoàn cảnh để sống khác biệt với những tầm thường, tăm tối quanh mình. Cái Đẹp,
cái Thiện và sự tài hoa đã cùng nhau châu tuần về đó.
hay ạ
Trả lờiXóa