Thứ Tư, 11 tháng 12, 2013

Phân tích nhân vật viên quản ngục trong truyện ngắn “ Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân ) để làm sáng tỏnhận xét : “ Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”

I. Giới thiệu:
- Tác giả : Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà
- Tác phẩm: Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám, trích trong tập Vang bóng một thời.
- Giới thiệu nhân vật : Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù là hình tượng viên quản ngục có tâm hồn yêu cái đẹp, quý trọng người tài khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
II. Nội dung :
1. Khái quát về nhân vật:
Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng váng, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Người đọc hầu như không nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, ta thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, tinh tế của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
2. Lai lịch và ngoại hình viên quản ngục:
            _ Nếu nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ, thì trái lại, nhân vật quản ngục có sự vận động rất thú vị. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho "thiên lương" nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, "cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết".
   _ Quản ngục lại có một ngoại hình ưa nhìn khác hẳn với hình dung của ta khi nghĩ về một viên quan cai quản trại giam. Đầu ông đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu; bộ mặt tư lự, có nhiều nếp nhăn, chứng tỏ đây là người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hình ảnh ngục quan thao thức giữa đêm khuya “băn khoăn ngồi bóp thái dương” suy nghĩ về người tù nổi tiếng sắp được chuyển đến càng chứng tỏ tính cách khác thường của ông ta.  
3. Hoàn cảnh sống của viên quản ngục:
            _ Quản ngục sống ở chỗ tối tăm, toàn những kẻ “tiểu nhân thị oai” phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ: cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông Huấn Cao, gặp thần tượng của mình trong một hoàn cảnh cực kì éo le: ở chính trại giam mà ông ta quản lí; thần tượng của ông giờ đây  là một tử tù, còn ông lại là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra: ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau.
4. Tính cách:
           _ Hình tượng nhân vật quản ngục là một sáng tạo rất sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dẫn dắt bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam với cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.  Viên quản ngục  được nhà văn xây dựng như một nhân vật phản diện nhưng cũng là một điểm nhấn độc đáo bởi tính cách đa dạng của ông ta.
_ Trước hết, viên quản ngục là người biết quý trọng người tài. Ông sẵn sàng biệt đãi Huấn Cao bất chấp “phép nước”. Điều này có thể thấy rõ qua thái độ của ông ta khi nhận tù: ông đã lệnh cho thơ lại “bảo ngục tốt quét dọn lại cái buồng trong cùng”, ông nhìn sáu tên tù mới vào “với cặp mắt hiền lành” và lòng kiêng nể tuy cố giữ kín đáo nhưng vẫn bộc lộ rõ ràng.
_ Ông lại còn có “biệt nhỡn” đối với riêng Huấn Cao khi trả lời câu nhắc nhở của bọn lính: “Việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Suốt nửa tháng Huấn Cao ở trại giam tỉnh Sơn, ngục quan đã “biệt đãi” người tù đặc biệt này như một khách quý. Trước mỗi bữa ăn, Huấn Cao đều được thầy thơ lại “dâng rượu với đồ nhắm”, thái độ thì hết sức lễ phép: “thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng”.
_ Quản ngục còn đích thân đến tận buồng giam tử tù để hỏi ông Huấn: “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Đáp lại lòng chân thành của ngục quan, Huấn Cao lạnh lùng xua đuổi: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Trả lời như thế, ông Huấn đã sằn sàng chờ đợi những trận đòn thù của ngục quan, nhưng kì lạ thay, viên quản ngục ấy lại làm cho ông Huấn bực mình thêm khi ông ta chỉ lễ phép lui ra với câu nói: “Xin lĩnh ý”. Kì lạ hơn nữa là những ngày tiếp theo cơm rượu vẫn được đưa đến đều đều và có phần “hậu hơn trước nữa”. Những trăn trở, băn khoăn và thái độ “biệt đãi” nói trên  cho thấy quản ngục có một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất đáng trân trọng. Vì thế, hình tượng viên quản ngục trên trang viết Nguyễn Tuân hấp dẫn không kém hình tượng người tử tù độc đáo.
_ Không chỉ biết quý trọng người tài, quản ngục còn có một tâm hồn nghệ sĩ. Mặc dù chọn nhầm nghề nhưng ông lại say mê cái đẹp và có sở thích cao quí là chơi chữ. Đó là một sở thích thanh cao, sang trọng. Biết Huấn Cao là người có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, ngục quan ấp ủ trong lòng mơ ước có một ngày xin được chữ ông Huấn, “được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Có được chữ của ông Huấn, đối với quản ngục chẳng khác nào “có một báu vật trên đời”.
+ Cuối cùng, ông Huấn cũng hiểu sở nguyện của ngục quan khi được thầy thơ lại kể cho nghe tâm sự canh cánh của ông ta trong suốt bao ngày. Ông Huấn đã chấp nhận cho chữ mặc dù tính ông vốn khoảnh, chỉ viết chữ cho tri âm tri kỉ. Ông đã nói với thầy thơ lại: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.
+ Cuộc kì ngộ này còn kết thúc bằng thái độ thành kính của ngục quan khi nhận lời khuyên chân thành của tử tù. Ông Huấn đã khuyên ngục quan rời bỏ nghề này, “lui về nhà quê” để giữ lấy thiên lương rồi hãy nghĩ dến chuyện chơi chữ. Ngục quan đã “vái tử tù một vái” và nói qua dòng nước mắt: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Tất cả những việc làm, lời nói, thái độ khác thường của ngục quan từ khi tiếp nhận người tử tù Huấn Cao đã cho ta thấy ông ta có một tâm hồn nghệ sĩ, thật sự say mê, tôn thờ cái đẹp.
 + Bằng ngòi bút lí tưởng hóa, Nguyễn Tuân còn xây dựng hình tượng viên quản ngục thành người tri âm tri kỉ với Huấn Cao. Ông ta đối lập với những tàn nhẫn, lọc lừa trong đề lao. Ông chính là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Điểm đặc biệt nhất là ông ta ý thức được “mình đã chọn nhầm nghề mất rồi”, vì vậy đối diện với Huấn Cao, ông ta khép nép, nhún nhường, trở nên nhỏ bé. Ông cúi đầu trước Huấn Cao bởi ông Huấn là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương cao cả. Dòng nước mắt của ông khi nhận lời khuyên của Huấn Cao chứng tỏ ông đã nhận thức được ý nghĩa sâu xa trong lời khuyên đó. Cái vái lạy của ông không phải là hành động của kẻ bề dưới sợ hãi trước uy quyền của kẻ bề trên mà là biểu hiện của một người bị khuất phục, cảm hóa trước “thiên lương”. Quản ngục đúng là “một tấm lòng trong thiên hạ” mà Huấn Cao được gặp và họ đã trở thành tri âm, tri kỉ của nhau.
+ Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Có thể nói rằng viên quản ngục là một vị minh quân biết sử dụng Huấn Cao là một tướng tài.
+ Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
+ Ta có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững. Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người được cái thiện dẫn đường, mong muốn một hi vọng không lầm đường lạc lối.
5. Cảm nhận về giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
_ Chữ người tử tù là một tác phẩm có nhiều thành công về nghệ thuật: cách tạo tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, đối thoại và độc thoại… Nổi bật lên trên là cách khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng cho nhân vật và tác phẩm. Nguyễn Tuân đúng là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".
_ Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, hỉnh tượng viên quản ngục vẫn còn ám ảnh người đọc. Ta có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ cái nghề bất nhân, về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững. Điều đó lí giải  vì sao tác giả Nguyễn Tuân lại ví tấm lòng của nhân vật quản ngục như “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ?”. Phải chăng qua nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn khẳng định cái đẹp có một sức mạnh kì diệu trong việc cảm hóa con người?
III. KẾT LUẬN
Truyện Chữ người tử tù đã được Nguyễn Tuân sáng tạo nên bằng bút pháp lí tưởng hóa, đậm màu sắc lãng mạn. Hai nhân vật tưởng chừng ở hai thế giới đối lập cuối cùng lại trở thành tri âm, tri kỉ của nhau. Nếu Huấn Cao là hiện thân của chân, thiện, mĩ thì quản ngục là con người được những giá trị cao cả ấy cảm hóa. Có thể nói, quản ngục cũng là một con người tượng trưng cho cái đẹp, cái thiên lương. Loại “nhân vật thức tỉnh” như quản ngục đã được ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân bất tử hóa cùng với hình tượng người anh hùng “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” để khi khép trang sách lại câu chuyện về họ cứ âm vang mãi trong lòng người đọc.




Cảnh cho chữ là cảnh xưa nay chưa từng có

          Trong sự nghiệp Nguyễn Tuân, tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” là một mốc son đậm nét giúp người đọc hiểu và gần Nguyễn Tuân hơn, một Nguyễn Tuân tài ba, uyên bác và làm chủ gần như tuyệt đối vốn tiếng Việt phong phú, dồi dào và đầy sáng tạo. Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó những yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số đó.
          1. Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mỹ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mỹ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Nhưng nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông còn kết hợp mỹ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên quản ngục.
Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhân vật Huấn Cao, quản ngục, thầy thư lại là một bộ ba nhân vật mà trong đó chỉ Huấn Cao là có tên (một cái tên cũng khá mơ hồ gồm tên gọi tắt của chức vụ (Huấn) đi kèm với họ (Cao)) nhưng vẫn sáng lên như những nốt nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và hoàn cảnh xã hội nói chung đã giam hãm những con người trong sạch đó vào cái lồng thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức phá hoại đối với cái Tài, cái Đẹp, cái Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư lại là những con người trung gian mà Huấn Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình lý tưởng đối lập với cuộc sống đang níu giữ, kéo ghì quản ngục và thư lại xuống. Quản ngục và thư lại sống lẫn trong cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là nhân vật của văn học lãng mạn. Huấn Cao sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời khuấy nước mặc dầu với những hình tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết. Con người ấy đối lập mình với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức được mình, ý thức được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với xung quanh và cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy thư lại không được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh của mình đang sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người (…) của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Họ sống lạc lõng với xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi nơi họ sống là một nơi “lẫn lộn (…) khó giữ thiên lương”, là nơi mà những cái thuần khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa cảnh sống đó, nhân cách và tài năng của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt lên khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông đang ở trong cảnh tù đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để tả lại khung cảnh “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định (…); bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”. Những câu văn bay bổng, tài hoa đó đã nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật lý tưởng của mình.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác nhau, phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và bóng tối luôn tương phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn Cao của viên quản ngục đã là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là cái nền nâng đỡ cho hàng loạt chi tiết sau này để những mảng màu tương phản được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao cho chữ là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến thắng cái Ác, ánh sáng đã lấn át bóng tối và quan trọng hơn là sự phát triển của tính cách nhân vật không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của nhân vật đã vượt lên trên hoàn cảnh
          2. a. Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy) Cao Bá Quát trước khi thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã đưa vào hai tính cách nổi bật của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
          b. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của Huấn quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ Huấn Cao như báu vật. Họ đã gặp nhau trong một tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, “giặc” đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Con người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một tên quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc. Nguyễn Tuân thích xây dựng nhân vật trong tình huống phi thường. Một viên quản ngục, tay sai đắc lực cho bộ máy thống trị lại tha thiết xin chữ một tội phạm. Còn Huấn Cao là một bậc anh hùng, một nghệ sĩ đâu có dễ dàng cho chữ một kẻ tiểu nhân đang làm nghề tàn ác, lừa lọc. Vậy mà việc cho chữ trong ngục đã diễn ra. Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quí cái đẹp của chữ nghĩa. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Coi khinh cường quyền và tiền bạc. Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quí. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
          c. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của anh hùng Cao Bá Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn Chỉ còn tiến mõ vọng canh, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã bày ra. Trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ. Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mỹ và cái dũng hòa hợp “dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang giậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh ô chữ trên phiến lục óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên bé nhỏ, bị động, khúm núm trước người tử tù. Nhưng với cách suy tưởng sâu xa hơn, chúng ta có thể hiểu được sự vĩ đại của viên quản ngục.Ta có thể ví rằng viên quản ngục là một vì vua anh minh và Huấn Cao là một tướng tài.Vua giỏi phải biết dùng tướng tài.
          d. Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?”. Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời thì lại khúm núm run run. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao đó, khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.Nhưng nếu không có người cai ngục biết trân trọng tài năng,thì Huấn Cao cũng chỉ là một Huấn Cao tử tù.
          e. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
          3. Chữ người tử tù không còn là “chữ” nữa, không chỉ là mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mỹ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, theo triết lý duy mỹ của Nguyễn Tuân.

          “Vang bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 – 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên sự thành công của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng nhà văn đã thực sự đem chúng ta đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng mạn vượt lên khỏi hoàn cảnh để sống khác biệt với những tầm thường, tăm tối quanh mình. Cái Đẹp, cái Thiện và sự tài hoa đã cùng nhau châu tuần về đó.

1 nhận xét: