Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc gặp bi kịch của kiếp “tài
hoa bạc mệnh”; ở Chí Phèo của Nam
Cao, là bi kịch của những khát khao lương thiện và cũng với Nam Cao, ta gặp ở Đời thừa tấn bi kịch tinh thần của người trí thức. Đời thừa bộc lộ rõ nét “tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao”. Bi
kịch
tinh thần
của Hộ
trong Đời
thừa là
bi kịch của một nhà văn – một trí thức giữa cơn dâu bể của cuộc đời, giữa một “xã hội chó đểu” (Vũ Trọng Phụng). Nhà văn ấy giữ được
phẩm
giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình, vậy mà
đành bó tay bất lực.
Có
thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết, văn
chương dường như là khát vọng lớn nhất của anh. Anh muốn trở thành một nhà văn chân
chính – nhà văn biết “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Anh mơ ước đến một ngày nào đó sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài
người. Nó đề cập đến những bức xúc của cả xã hội, của cả nhân loại.
Nó nói được những cái “lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình
bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Và nhất định sẽ giật giải Nôben! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền
văn học nước nhà. Đấy quả là một ước mơ chính đáng! Không phải
người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường
văn chương đầy khổ ải. Nhà văn
phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường của mình, xác định đúng lí
tưởng cho mình. Anh không sa vào những mơ mộng vị nghệ thuật – nghệ thuật là “ánh trăng huyền ảo” (như Điền
trong Trăng sáng). Anh
thấy
ánh trăng của nghệ thuật biết “làm đẹp đến cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa”.
Quan điểm của anh đúng đắn lắm! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm! Thế nhưng, trong sáng
tác của mình, anh đã viết những gì? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào? Anh không hướng nghệ
thuật vào “thứ văn
chương của bọn nhàn rỗi”; anh không viết chỉ để cho những
cô áo xanh, áo đỏ tha
thướt
đọc, nhưng anh đã viết những gì từ khi anh bắt
tay vào sáng tác? Chao ôi! Thực tế
có phải bao giờ cũng chiều theo khát vọng và
đẹp như khát vọng đâu! Anh viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm
chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ,
rất nông” bằng “một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi” của chính mình. Dường như
anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có
phải bao giờ ý muốn cũng
thành hiện
thực đâu! Và đó chính là cái bi
kịch của anh – bi kịch của một đời viết
văn
– bi kịch của người hiểu mình, biết mình phải làm gì mà đành lựa bút theo những điều mình chẳng muốn.
Tôi cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc đổ sụp trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính. Anh phải viết ẩu như thế, cẩu thả như thế chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi! Giá như anh cứ được bay nhảy với những giấc mơ ấy! Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Anh còn vợ
và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bề níu
kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính nỗi lo tiền bạc đã buộc anh phải viết những
bài trái lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính
toán về giá
cả
sinh hoạt, về bữa ăn hàng ngày… thì dâu còn
chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết
thật nhanh, thật nhiều để người vợ,
đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ vứt bỏ cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế! Nhưng
anh luôn nghĩ tới tác phẩm của anh – các
tác phẩm cho toàn nhân loại – nên anh càng đau đớn! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn
đau thì chồng chất tập trung hơn. Chao ôi!
“Đau đớn thay cho những
kiếp
sống muốn cất
cánh bay
cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi
kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của
những giấc mộng văn chương. Và dường như giấc mộng văn chương ấy chính là
điều day dứt trong anh mãi không thôi. Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư, tình cảm con
người thì Nam Cao mới viết những dòng đầy cảm xúc như thế! Dường như những day
dứt trong cuộc đời ông – cuộc
đời văn sĩ đầy khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi
kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của Nam Cao thời kì
trước cách mạng. Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam Cao có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng ông đã
biết vượt lên trên lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết
những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời, về những kiếp sống lầm than và
chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt
khi thấy tên mình trên những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… bởi chính đó là
nơi giấc mơ văn chương nảy nở. Có thể tự tin mà nói rằng, với Đời
thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng
nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm sống và vốn
sống đã đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam
Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người
trí thức… Và viết được những dòng như thế cũng nhờ cái nhân đạo “mới mẻ”, “độc đáo” của
Nam Cao. Qua bi kich tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao
kiếp người lao khổ trong cuộc đời này.
Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền
thống? Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ
chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim tình nghĩa.
Bi
kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ cũng là nguyên nhân của bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua
những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn một chút an ủi – đó
chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa thực hiện được khát vọng của mình, anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của anh, nhưng anh nuôi được
vợ con. Anh đã kéo dài được sự tồn tại của gia đình mình. Và đó có thể coi là việc làm hữu ích. Đó là sự an ủi cho cái “đời thừa” của một nhà văn. Thế cũng
đáng an ủi lắm chứ! Vì anh là người đặt “tình thương” lên hàng
đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là trên
hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: Tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca
tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình”.
Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, với anh, tình thương là
tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình,
anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những
giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ của Từ đã khiến anh xúc
động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu
xương thịt chảy ra thành nước mắt hết” nhưng gặp anh, tình
thương của anh đã tỏa rạng giúp họ thoát khỏi
những đớn đau. Một người
dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con
chẳng là người rung cảm lắm sao? Chính tình
thương, lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá! Đời
anh không phải là “đời thừa” với gia đình nho nhỏ của anh. Anh đau khổ vì tên
anh cứ “lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ” nhưng với Từ và đàn con, anh là biểu
tượng sáng chói của
tình thương.
Tình thương ấy là rất đáng trân trọng. Trong một xã hội rác rưởi, “chó đểu” như thế, hành động của anh chẳng
giữ được cái lẽ sống cao đẹp hay sao? Thế
nhưng, anh cũng chẳng giữ được cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh kết luận:
Nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia.
Anh cạn nghĩ quá! Đó không phải hoàn toàn là lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không
khí gia đình đã khiến anh tìm niềm
vui trong men rượu. Anh muốn quên, quên đi tất cả. Anh không say trong men tình ái, trong
khúc nhạc đong đưa… mà say khủng
khiếp trong men rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết mình
tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp
làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Rượu
đã khiến anh trở thành kẻ vô học, rượu
đánh đồng
những kẻ xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo những cơn say. Khi say,
ai cũng như ai
hết!
Men rượu của anh không giúp anh có được cái tình như Chí Phèo giúp hắn hướng về cái “thiên
lương”. Men rượu đã khiến anh trở thành kẻ tiểu nhân vô học. Anh vi phạm lẽ sống tình thương của mình.
Anh đối xử với vợ con mình như một kẻ vũ phu. Anh đánh đập vợ,
người vợ hiền lành tận tụy của mình không
biết bao nhiêu lần. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ nữa… cũng đáng vật một nhát cho chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại
quá! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần Người vô cùng cao đẹp trong
tâm hồn anh. Đời
anh coi như bỏ đi trong văn chương, tưởng còn được ai ủi bởi anh đã giữ được trọn lẽ sống tình thương của mình.
Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh
thực hiện được điều đó. Thế mà nay, chính
cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp
nốt. Đời anh quả là “đời thừa”. Bi kịch đầu tiên là bi
kịch của những giấc mộng văn chương nên cái “thừa” còn không quá
nhiều đau đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái “thừa” của anh đã được thể hiện đầy đủ. Anh đã động đến phần cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là của con người ý thức được phẩm giá, nhân cách
của mình nhiều nhất! Ở bi kịch trước, cái mặc cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn. Nếu Chí Phèo chỉ
gieo rắc tội lỗi của hắn cho dân làng Vũ Đại, anh
giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh
thì anh, anh gieo những
“tình cảm
rất nhẹ, rất nông”, những tình cảm quá ư tầm thường ấy vào bao nhiêu độc giả. Sự nhiễm
hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này – bi kịch của một con người mặc cảm tội lỗi – còn hơn nhiều. Với tư cách một nhà văn, anh đã gây ảnh
hưởng đến người đọc từ những bài văn viết vì lợi nhuận. Với tư cách một con người, anh
đã gây ra những điều ghê gớm hơn. Xã
hội đương thời quá thừa những
cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh cũng phá hỏng nốt.
Mặc cảm này quá lớn và không có
gì an ủi được. Lẽ sống tình thương là cái được
anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm
thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa có bao giá trị, bao phẩm giá khác đã sụp đổ. Bi kịch này khủng
khiếp và hoàn toàn không có lối thoát; dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh – một “đời thừa”. Anh đổ lỗi cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy vậy cũng cần nói
thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa từ chính xã hội
đương thời. Xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp
lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân
ấy, người ta
đã
nhận ra. Anh chưa tìm được
lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh sống. Nhưng đó
phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao?
Ông đã biết đề cao những khát vọng đẹp
của người
trí thức,
đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng
biết
bao! “Mới mẻ, độc đáo” chính là ở lòng thương
người
– tình
người nồng đượm bao la đằng sau
lối viết văn tưởng như dửng dưng,
lãnh đạm.
Ngày
nay, cuộc đời đã đổi thay. Lớp văn sĩ đã
thoát khỏi dù là một phần những nỗi lo “cơm áo”, không còn những bi
kịch tinh thần đau khổ như Hộ
nữa. Nhà văn ngày nay được ưu đãi hơn. Nhưng ta không thể quên
thời kì
mà
người trí thức văn nghệ sĩ mang những bi
kịch tinh thần. “Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” của Nam Cao đã khiến
cho nhân vật cho dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét