XUÂN DIỆU
( 1916 – 1985)
Xuân
Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu; sinh ngày 02 - 2 - 1916 tại Tùng Giản - Tuy
Phước - Bình Định.
Quê
quán: Đại Lộc - Can Lộc – Hà Tĩnh.
Xuân
Diệu học tiểu học ở Quy Nhơn, sau đó ra học trung học ở Hà Nội và Huế.
Năm
1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho. Một thời gian
sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận.
Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau
Cách mạng tháng Tám, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, thư kí
tòa soạn Tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm
1948 là Uûy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ 1957 cho đến khi qua
đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông được
kết nạp vào Đảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn
Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm
trọng bệnh và qua đời.
Xuân
Diệu để lại một di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại:
-
Trước Cách mạng tháng Tám:
+
Thơ : Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945).
+
Văn xuôi : Phấn thông vàng (1939)
-
Sau Cách mạng tháng Tám:
+
Thơ : Ngọn quốc kì (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới
vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi
sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm
tay ( 1962), Khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi
giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976),
Thanh ca (1982).
+
Văn xuôi, tiểu luận, phê bình : Tiếng thơ (1951), Những
bước đường tư tưởng (1958), Ba thi hào dân tộc (1959),
Phê bình giới thiệu thơ (1960), Trò chuyện với các bạn làm thơ
trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Thi hào dân tộc
Nguyễn Du (1966), Đi trên đường lớn (1968), Và cây dời
mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim (1977), Lượng
thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam ( hai tập; 1981& 1982).
+ Dịch và giới thiệu thơ
nước ngoài của các nhà thơ như : Targo, Puskin, Maiacốpxki,
Đimitrôva,...
Một số điểm cần lưu ý :
+ Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn
là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt được
nhiều thành tựu lớn trong sáng tác.
+
Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được
những thành công lớn không chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca
hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái hay, sự độc
đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ.
+
Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến
dâng sức lực và trí tuệ của mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian
khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ nhân dân …
Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ
không chỉ ở thơ, mà còn ở tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc
đời.
2.1 – Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng
Tám :
Trước Cách mạng tháng
Tám, Xuân Diệu có hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi
hương cho gió (1945). Ông là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới
cả về nội dung lẫn hình thức. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
đã khẳng định: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, nhà thơ
đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”.
Khác với các nhà thơ cùng thời kì, Xuân Diệu gắn
bó thiết tha với cuộc sống, “Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng
trần gian”. Khát vọng mãnh liệt đến với cuộc đời, giao cảm với đời là một trong
những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ Xuân Diệu.
-
Cảm hứng về tình yêu là cảm hứng nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Với
ông, tình yêu đã trở thành lẽ sống, “làm sao sống được mà không yêu”, mặc dầu
ông cảm nhận :“ Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được
yêu”. Bởi thế, ông luôn có tâm trạng Vội vàng, Giục
giã . Ông sợ thời gian, ông muốn vũ trụ ngưng đọng :
Tôi
muốn tắt nắng đi
Cho
màu đừng nhạt nắng
Tôi
muốn buộc nắng lại
Cho
hương đừng bay đi.
(Vội
vàng)
hay
là:
Mau với chứ, vội vàng
lên với chứ
Em
em ơi, tình non sắp già rồi
Gấp
đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời
trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
(Giục
giã)
- Tình yêu được Xuân Diệu diễn tả với nhiều cung
bậc, từ Gặp gỡ rồi Yêu, cho đến khi Xa cách , Biệt
li êm ái và với những tâm trạng và hành động khác nhau: Có
khi là sự “dại khờ”, “mời yêu” hay “ngẩn ngơ”, “nhớ mông lung”,“sầu”, …
Cũng có khi “ rạo rực” khát vọng :
Thà
một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm .
+
Xuân Diệu đã thể hiện được một tình yêu đích thực, không e ấp ngượng ngùng khi
bày tỏ tình yêu. Ông muốn tạo nên một không gian thấm đẫm tình yêu để gửi gắm
niềm khao khát về tình yêu vô biên và tuyệt đích :
Yêu
tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải
nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Phải
mặn nồng cho mãi mãi đem xuân
Đem
chim bướm thả trong vườn tình ái.
(Phải
nói)
+
Dẫu tình yêu có nồng cháy, mãnh liệt nhưng nó vẫn không được cuộc đời đón nhận,
khiến “cái tôi” phải cầu xin:
Mở
miệng vàng.. và hãy nói yêu tôi
Dầu
chỉ là trong một phút mà thôi!...
(Mời
yêu)
Càng
yêu cuộc đời bao nhiêu, Xuân Diệu càng tự đày ải trái tim của mình và càng thất
vọng bấy nhiêu… Điều đó đã tạo nên sự “cô đơn muôn lần muôn thuở cô đơn” cho
nhà thơ. Đặc biệt, có khi “ cái tôi” đã lên đến đỉnh cao của sự cô đơn, nhỏ
nhen, tầm thường:
Ta
là Một, là Riêng là thứ Nhất
Không
có chi bè bạn nổi cùng ta !
(
“Cái tôi” gục xuống, sợ hãi, thốt lên lời rên rỉ
trước cuộc đời thờ ơ, lạnh nhạt, hay đau đớn van xin : “Chớ đạp hồn em”, “Chớ
để riêng em phải gặp lòng em” và rơi vào tâm trạng tuyệt vọng :
Xao
xác tiếng gà, trăng ngà lạnh buốt
Mắt
run mờ, kỉ nữ thấy trăng trôi
Du
khách đi, du khách đã đi rồi .
(Lời
kĩ nữ)
Cũng
vì thế, tình yêu trong thơ Xuân Diệu gắn liền với nỗi cô đơn và sự hoài nghi.
Ngay cả khi “ được yêu” nhưng “ cái tôi” vẫn lo sợ vì cảm nhận sự biệt li, tan
vỡ đang dần đến. Cho dù cùng người yêu dạo bước dưới ánh trăng “cái tôi” vẫn
cảm thấy:
Trăng
sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai
người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
hay
là:
Nắng mọc chưa tin, hoa
rụng không ngờ
Tình
yêu đến, tình yêu đi ai biết
Trong
gặp gỡ đã có mầm li biệt
Những
vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài…”
( Giục giã)
Có
thể nói, tình yêu trong thơ Xuân Diệu thời kì này rất nồng cháy, “vô biên” để
rồi rơi vào bi kịch của một trái tim hiến dâng nhầm chỗ và “say khướt đau
thương”.
-
Về nghệ thuật: Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan mà đặc biệt là
cảm giác ( Thơ duyên, Vội vàng, Nhị hồ,… ). Ông sử
dụng ngôn ngữ thơ rất sáng tạo, và luôn có sự tìm tòi mới mẻ, độc đáo nhằm tạo
nên sức gợi tả, truyền cảm mạnh mẽ cho thơ (Đây mùa thu tới, Khi chiều giăng
lưới, Vội vàng). Xuân Diệu đã sử dụng thành công sự tương quan giữa
các màu sắc, âm thanh nhịp điệu để tạo nên âm hưởng trong thơ ( Nguyệt
cầm, Thơ duyên,… ).
Tóm
lại: Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám biểu hiện rõ tấm lòng của một
con người nặng tình với đời song bế tắc. Tình yêu nam nữ trong thơ Xuân Diệu
thời kì này được diễn tả với tất cả cung bậc của nó qua những vần thơ uyển
chuyển giàu âm thanh, màu sắc, hình ảnh…, để lại âm vang mạnh mẽ trong lòng
người đọc.
2..2 – Thơ Xuân Diệu sau Cách mạng tháng
Tám:
2.2.1 - Thời kì đầu sau
Cách mạng tháng Tám:
Xuân Diệu hướng về cuộc sống cách mạng của dân
tộc , tự hào, phấn khởi trước sự thành công của Cách mạng tháng Tám. Ông bộc lộ
khát vọng “Mở lòng ra ôm đón lấy sao vàng” và “Đi theo tiếng gọi nước non
thiêng”.
Thơ ông ở thời điểm này thể hiện cảm xúc mạnh mẽ
trước hiện thực cuộc sống cách mạng với ý thức, trách nhiệm của một công dân
đối với Tổ quốc. Lần đầu tiên viết về cách mạng, Xuân Diệu đã có được những vần
thơ trong sáng, yêu đời. Điều đó được biểu hiện rõ ở Ngọn quốc kì (1945)
và Hội nghị non sông (1946). Ý nghĩa thiêng liêng của lá
cờ đỏ sao vàng được nhà thơ cảm nhận :
Cờ
như mắt mở thức thâu canh
Như
lửa đốt hòai trên chót đỉnh.
Cờ
như nắng mãi ấm luôn luôn,
Sưởi
khắp lòng ai nghe vắng lạnh.
Sớm
hôm canh giữ lấy hồn thiêng,
Bay
mãi trên trời, treo sứ mệnh.
(Ngọn
Quốc kì)
Có thể nói, so với nhiều nhà thơ khác, thơ Xuân
Diệu ra đời kịp thời, mang tính thời sự nhưng cũng giàu chất lãng mạn. Âm hưởng
hùng tráng, đằm thắm thiếr tha toát lên từ tác phẩm của ông đã góp phần tạo nên
sức cuốn hút, cổ vũ mạnh mẽ bạn đọc nhanh chóng vững lòng tin đến với đời sống
cách mạng.
2.2.2 - Thời kì kháng chiến chống Pháp
Xuân
Diệu hăng hái tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó với cuộc sống nhân
dân. Càng ngày ông càng hiểu hơn về những con người giản dị mà vĩ đại. Đó chính
là điều kiện thuận lợi giúp ông có được vốn sống và nguồn cảm hứng sáng tạo để
viết nên các tập thơ: Dưới vàng sao (1949), Sáng (1953), Mẹ
con (1954).
Cảm hứng chủ đạo ở các tập thơ trên là niềm tin
yêu, niềm lạc quan trước hiện thực đời sống cách mạng. Ông cảm nhận cuộc đời
như :
Một
sớm mai hồng, một bình minh
Xanh
mắt trẻ con,
Hồng
môi thiếu nữ.
(
Trở về)
Cuộc đời hiện tại dù còn bao gian truân thử
thách nhưng đối với nhà thơ “Bà mẹ đời du dương tay mở rộng” và Hương
đời luôn thấm đượm. Nhà thơ cho rằng:
Đời đáng yêu – nhiều lúc
có gì đâu…
Như đôi lứa mình lặng lẽ
nhìn nhau…
Một cái nắm tay, một đầu
thuốc dở,
Một tiếng vang trong một
mái đầu.
(Hương đời)
Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc cuộc sống cao đẹp của
quần chúng và cảm thông với nỗi khổ đau của họ. Hình ảnh quần chúng lần đầu
tiên xuất hiện trong thơ Xuân Diệu chính là một nét mới về đối tượng
phản ảnh, nó đánh dấu cho bước chuyển quan trọng về tình cảm nhận thức trên con
đường thơ của ông (Tặng làng Còng, Bà cụ mù lòa…). Trên cơ sở đó, nhà
thơ đã viết nên nhiều vần thơ giản dị mà thấm nặng nghĩa tình:
Hạt
cơm ăn của bà con
Là
tình, là nghĩa, là ơn thấm nhuần.
(
Tặng làng Còng)
Vẻ
đẹp của hình ảnh của bà mẹ nghèo trong kháng chiến đã được nhà thơ thể hiện
sinh động qua nhiều bài thơ và rõ nét nhất là tình yêu thương của mẹ. Cũng vì
thế, khi giã từ Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội nhà thơ không thể nào quên được hình
ảnh của mẹ vào những tháng năm đó:
Mẹ
nghèo vẫn cố nuôi con:
Khi
bùi măng nứa, khi ngon củ mài.
Sẻ
từng hạt muối cắn đôi
Nhà
sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.
(Ta
chào Việt Bắc, về xuôi)
Bên cạnh đó, Xuân Diệu cũng bày tỏ được một cách
chân thành nỗi trăn trở và sự kính yêu của mình khi viết về Bác. Ông đã tìm
được cách thể hiện riêng và rất thấm thía:
Trên
đầu tóc Bác sương ghi
Chắc
đôi sợi bạc đã vì chúng con.
( Sáng)
Dù
còn có hạn chế song các tập thơ trên đã thể hiện được bao nỗi niềm, tình cảm
của Xuân Diệu trước hiện thực đời sống cách mạng. Thơ Xuân Diệu thời kì này
đánh dấu một bước chuyển biến lớn về tư tưởng, tình cảm, giọng điệu… , trên con
đường thơ của ông.
2.2.3 - Thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội và
kháng chiến chống Mĩ
- Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng
lợi, miền Bắc bước vào cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước hiện thực sôi
động đó, với sự nhạy cảm, lòng tin yêu cuộc đời mới, thơ Xuân Diệu có sự vươn
lên mạnh mẽ, đề cập đến nhiều vấn đề trong cuộc đời mới, biểu hiện rõ ở ba tập
thơ: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau- Cầm tay
(1962), Khối hồng (1964).
Xuân
Diệu say sưa ngợi ca cuộc đời mới với những đổi thay mang ý nghĩa sâu sắc trong
đời sống của dân tộc, và rồi ông trăn trở nghĩ về mình, bày tỏ chân thành niềm
vui hạnh phúc qua nhiều bài thơ như : Ngói mới, Lệ, Chào Hạ
Long... Ông nguyện nhìn đời bằng Đôi mắt xanh non, bởi vì,
ở khắp mọi nơi, từ các làng quê vùng đồng bằng đến vùng núi Mã Pí-Lèng, hay
hải đảo Chòm Cô Tô mười bảy đảo xanh, cuộc sống bao giờ cũng “xanh
non”, và“mãi mãi tươi dòn”. Với Xuân Diệu, cuộc sống giờ đây chính
là những trang đời đẹp nhất, “những trang tốt lành”, để rồi ông khao khát :
Muốn
trùm hạnh phúc dưới trời xanh,
Có
lẽ lòng tôi cũng hóa thành
Ngói
mới.
(Ngói
mới)
Không
chỉ vui say mà nhà thơ còn tự hào khi đã qua rồi nỗi đau tê tái, “vị buồn ghê
mặn chát”, “mực mài nước mắt gửi người thương”, “vũ trụ tưởng tàn, thế gian
tưởng hết”…, và giờ đây hạnh phúc đến với mọi người. Vì lẽ đó, ở bài thơ Lệ nhà
thơ có được cách nhìn, cách nghĩ rất thấm thía về quá khứ và hiện tại:
Xưa
lệ ta sa oán hận đất trời,
Nay
lệ òa, ta lại thấy đời tươi!
-
Giọt nước mắt ta
Chan
chứa tình người.
Trong
cảnh đất nước chia cắt ông Nhớ quê Nam, với “vườn xoài trưa
nắng”, “gió biển Quy Nhơn”, “mảnh vườn Sa Đéc, con kênh Tháp Mười”, nhớ “bà má
Năm Căn bỏm bẻm nhai trầu”, nhớ “trăng lam Đèo Cả, mây hồng Hải Vân”; nhớ điệu
bổng trầm “… qua nhớ thương em bậu”, nhớ sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Hương, và Gửi
sông Hiền Lương bao nghĩa tình sâu nặng :
Gửi
ngàn mến với muôn thương trong ấy
Gửi
lời về xin bớt nhớ, khoan thương
Gửi
kiên trinh một tấm lòng vàng.
Càng
đến với cuộc sống, tình đất nước, tình người trong thơ Xuân Diệu càng đằm thắm
thiết tha, càng mang ý nghĩa khái quát sâu sắc.
Khi
cả nước có chiến tranh, Xuân Diệu nhanh chóng hòa nhịp với cuộc sống chiến đấu
của dân tộc, ông không ngại khó khăn gian khổ đến với nhiều vùng đất nóng bỏng,
ác liệt nhất với tâm nguyện :
Tôi
cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng
đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu,
Tôi
sống với cuộc đời chiến đấu
Của
triệu người yêu dấu gian lao.
(Những
đêm hành quân)
Rất
dễ nhận thấy, thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của Xuân Diệu xuất
hiện đều đặn trên báo chí vàcó khả năng ứng chiến nhạy bén trước những sự kiện
của đời sống kháng chiến. Điều đó được phản ánh rõ nét qua ba tập thơ: Hai
đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976).
Hơn
lúc nào hết, nhà thơ nhận thức rõ hơn về sức sống mãnh liệt của con
người Việt Nam trong chiến tranh. Ông khẳng định Sự sống chẳng bao giờ
chán nản, và “chúng ta yêu sự sống bền dai, vĩnh viễn, bao
la!”.
Xuân Diệu có ý thức mở rộng thi đề để phản ảnh
mọi mặt của đời sống. Có những cảnh như : Các cháu đi sơ tán, hay
cảnh Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng đi vào hỏa tuyến đã gợi
lên cho người đọc biết bao niềm xúc động mạnh mẽ.
Nét mới của thơ Xuân Diệu ở thời kì này là vừa
giàu chất trữ tình vừa chứa đựng tính triết lý biểu hiện rõ trong bài Quả
sấu non trên cao và Sự sống chẳng bao giờ chán nản.
Mặt khác, thơ ông còn có thêm chất trào phúng (Con chim và xác chiếc
tàu bay Mĩ) .
2.2.4 - Từ sau 1975 đến khi qua đời
Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất, Xuân Diệu viết về Miền Nam quê ngoại, lòng dạt dào
vui sướng khi Đi giữa Sài Gòn trong ngày chiến thắng và ông
bồi hồi nhớ về quê ngoại sau bao năm xa cách.
Ông có khát vọng: Tôi muốn đi thăm
khắp cả miền Nam, Nghe nhạc Nam để “thức mãi cùng
thương nhớ”, đến Phan Thiết “thăm kinh đô cá mắm”, hay Tâm
sự với Quy Nhơn sau hơn ba mươi năm trở lại với quê ngọai, nơi chan
chứa kỉ niệm của tuổi thơ và tự hào hơn về vẻ đẹp của miền đất này:
Ôi!
Biển Quy Nhơn, biển đậm đà
Thuyền
đi rẽ sóng, sóng viền hoa.
Cảm
ơn quê má muôn yêu dấu
Vẫn
ấp iu hoài tuổi nhỏ ta.
Nhiều vần thơ của ông ở thời kì này thể hiện sự
đằm thắm nghĩa tình đối với miền Nam. Có thể nói: “Viết về miền Nam là Xuân
Diệu đã khơi dậy những tình cảm, những kỉ niệm sâu sắc của mình, những hình ảnh
được chắt lọc qua nhiều năm tháng để chỉ còn lại những gì thực sự là máu thịt,
là rung động cho thơ”( Mã Giang Lân ).
2.2.5 - Thơ tình của Xuân Diệu sau Cách mạng
tháng Tám
Với thơ tình, Xuân Diệu đã đạt được những
thành công rất đặc sắc. Ở mảng thơ này bản lĩnh nghệ thuật của Xuân Diệu bộc lộ
rõ nét nhất.
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ tình Xuân Diệu
giãi bày niềm khao khát được ban phát tình yêu, hiến dâng, vồ vập nhưng rồi
như Nước đổ lá khoai, và kết cục rơi vào bi kịch của một trái
tim hiến dâng nhầm chỗ. Còn sau Cách mạng tháng Tám, thơ tình của ông có được
một nguồn mạch mới, đó là tình yêu bền chặt, gắn bó không thể gì chia cắt nổi
bời tình yêu của lứa đôi bao giờ cũng nồng nàn, đến “ngàn năm không thỏa”. Dù
“anh không xứng là biển xanh / nhưng anh muốn em làm bờ cát trắng” để có thể :
Hôn
mãi cát vàng em
Hôn
thật khẽ, thật êm
Hôn
êm đềm mãi mãi.
(
Biển )
Còn nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của tình yêu được
nhà thơ cảm nhận :
Uống
xong lại khát là tình
Gặp
rồi lại nhớ là mình của ta
(
Uống xong lại khát)
Xuân Diệu cảm nhận sự xa cách của tình yêu “một
khắc là thế kỉ”. Bởi vậy, càng yêu nhau họ càng mong muốn gần nhau, gắn bó với
nhau để rồi hiểu nhau hơn. Họ khao khát mãi bên nhau để san sẻ cả niềm vui hạnh
phúc, cũng như nỗi buồn. Nhà thơ cảm nhận cho rằng :
Vai
anh khi để đầu em tựa
Cân
cả buồn vui của một đời
(Tình
yêu san sẻ)
Ông cũng nói đến nỗi đau trong tình yêu,
nỗi đau đó nhức nhối vò xé tấm lòng ho, nó là Cái dằm, là“vết
thương trong cõi tinh thần” của lứa đôi. Nhưng nỗi đau rồi sẽ qua
đi, họ nhanh chóng “ làm lành” với nhau vì “ em là nhân của hồn anh”. Có thể
nào anh lại thiếu vắng em giữa cuộc đời, khi anh hiểu rằng :
Mang
em trong dạ như mầm
Ngày
đi suy nghĩ đêm nằm nhớ thương
(
Quả trứng và lòng đỏ)
Tình yêu trong thơ Xuân Diệu càng trở nên cao
đẹp hơn khi lứa đôi hiểu rõ giữa họ với cuộc đời có mối quan hệ thắm thiết.
Hạnh phúc lứa đôi gắn liền với hạnh phúc của dân tộc, nhà thơ cho rằng:
Của
đời ta nhận ấm êm
Hồn
trao âu yếm ta thêm tặng đời
( Tình yêu muốn hóa vô
biên).
Khác
với trước Cách mạng tháng Tám, giờ đây tình yêu ít có nỗi buồn mà thấm đượm
niềm vui. Tình yêu đã làm trỗi dậy niềm vui, giúp lứa đôi “cởi hết ưu phiền gửi
gió mây”, và khi đó giọng nói của em dù chỉ là “giọng nói thường” nhưng “anh
vẫn nghe hay tựa tiếng đàn”, vẫn ngập tràn hạnh phúc trong cảnh :
Em
cười ríu rít ở sau xe
Em
nói lòng anh mãi lắng nghe
Thỉnh
thoảng tiếng cừi em lại điểm
Đời
vui khi được có em kề.
(
Giọng nói )
Ngoài
ra, thơ tình Xuân Diệu thời kì này bên cạnh tình yêu còn có thêm tình vợ chồng.
Tuy viết về tình vợ chồng nhưng vẫn quyện hòa, chan chứa tình yêu, vẫn là thơ
tình yêu. Điều này biểu hiện rõ qua các bài thơ như : Anh thương em khi
ngủ, Đứa con của tình yêu, Vợ chuẩn bị hành trang cho chồng vào hỏa
tuyến, Dấu nằm, Đứng chờ em,...
Có thể nói, đến với thơ tình của Xuân Diệu sau
Cách mạng tháng Tám, chúng ta nhận thấy: tóc Xuân Diệu dù đã hoa râm nhưng ông
vẫn giữ được chất thanh xuân của tâm hồn để cùng tuổi trẻ nói chuyện tri âm,
chuyện tình yêu, hẹn thề, nói chuyện say đắm … Bởi thế, nhà thơ Trần Lê Văn đã
viết :
“ Bởi quá
yêu đời nên nặng lòng ấp ủ
Bởi
không muốn già, nên bền chí thanh xuân”
(
Dây đàn bỗng đứt).
Mảng
thơ tình của Xuân Diệu, chính là món quà tặng người đời mãi mãi, như ở bài
thơ Đề tặng ông đã viết :
Tặng
lòng con trai
Tặng
lòng con gái
Tặng
hoa tặng trời
Tặng
tình mãi mãi
……….
Tặng
hương - tặng Đời”.
3 – Xuân Diệu với văn xuôi, tiểu luận, phê bình
Cần lưu ý các điểm sau :
-
Sự quan tâm của Xuân Diệu đối với các nhà thơ lớp kế cận và lớp trẻ. Không ít
nhà thơ trẻ đã đạt được sự thành công trong sáng tạo phần nào có sự
giúp đỡ, quan tâm của Xuân Diệu.
-
Xuân Diệu giới thiệu thơ quần chúng. Ông chịu khó tìm kiếm, chắt lọc cái hay,
cái đẹp trong những sáng tác của họ để giới thiệu một cách trân trọng.
-
Xuân Diệu khám phá, phát hiện cái hay, cái đẹp trong thơ của các nhà thơ hiện
đại ưu tú như : Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên …
-
Giới thiệu thành tựu của các nhà thơ lớn trong thơ ca dân tộc: Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương
…
- Xuân Diệu dịch và giới thiệu một số nhà thơ
lớn ở nước ngoài đối với người đọc Việt Nam và đồng thời giới thiệu một số bài
thơ Việt Nam tiêu biểu sang các nước khác.
- Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống
và sống hết mình cho cuộc sống. Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt
tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say
mê sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống. Thơ ông bám lấy
thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa
thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi
tiết hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh
rộng lớn phong phú.
- Xuân Diệu là nhà
thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương
diện (cách xây dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ … ). Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung bình ở mỗi tập thơ của
ông.
- Tâm
hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững trong
thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn
đầy trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở ban
đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn
đã tạo cho thơ ông thêm giàu hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với
nhận thức của người đọc.
- Thơ
Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài
dòng trong nhạc điệu, từ ngữ . Điều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức
truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.
- Xuân
Diệu là một nhà thơ cần mẫn,sung sức trong sáng tạo nghệ thuật và đã có những
cống hiến to lớn cho văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng, ông
đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị đặc sắc, mà đặc sắc nhất là thơ tình yêu
nam nữ.
-Nghĩ về Xuân Diệu là chúng ta nghĩ về một tài
năng, một tấm gương lao động nghệ thuật giàu sức sáng tạo, xứng đáng để các
nghệ sĩ noi theo.
Lập dàn ý
Mở bài :
1. Về tác giả và thời điểm ra đời của tác phẩm
- Xuân Diệu
là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông
hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và
“Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trờ thành “nhà thơ mới
nhất trong các nhà thơ mới”. Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ
Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu
viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội
dung và nghệ thuật đặc sắc
-Bài thơ Vội
vàng được sáng
tác năm 1938, in trong tập Thơ thơ,
thi phẩm đầu tay và ngay lập tức vinh danh Xuân Diệu như một đại diện tiêu biểu
nhất của phong trào Thơ Mới.
- Nội dung : Bài
thơ được coi là tuyên ngôn về lẽ sống của nhà thơ. Tất cả mọi quan niệm ,thái độ
của nhà thơ đối với cuộc đời được phản ánh trong bài thơ.Những quan niệm ấy
đặt trong mối quan hệ với không gian, thời gian và đời người.Nó không phải lí
thuyết khô khan mà được diễn tả bằng cảm xúc chân thành tha thiết.
Thân
bài:
Sống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan
niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá
nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ
thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “ biện luận” rất riêng của tác giả.
a/ Từ phát hiện mới: cuộc đời
như một thiên đường trên mặt đất.
Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước
những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:
Tôi
muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho
hương đừng bay đi!
-
4 câu thơ ngắn gọn, vang ngân một cách đĩnh đạc trang trọng :Tôi muốn…
-
Người đọc bị bất ngờ bởi ý thơ táo bạo. Có cảm giác như thi nhân đang đi giữa
đất trời với nắng và gió, với hương thơm và cỏ lạ và muốn tận hưởng tất cả.
-Hai
điệp ngữ “tôi muốn” và điệp từ “cho” vừa là sự khẳng định vừa tạo âm điệu mạnh mẽ dứt khoát và đầy khát
vọng . Nhà thơ muốn giữ nắng, giữ gió, giữ hương , quà tặng tuyệt diệu của tạo
hoá ban cho con người .Nắng tắt thì ngày sẽ tàn ,gió bay sẽ đưa hương đi, nhà
thơ muốn níu giữ thời gian trở lại
-
Ko chỉ mong muốn khát khao câu thơ còn chứa đựng cả sự khẩn cầu của nhà
thơ: Đừng nhạt mất- đừng bay đi. sự khẩn cầu ấy lặp 2 lần trong đoạn như
muốn diễn tả niềm thiết tha của nhà thơ trứơc vẻ đẹp cuộc đời.
-
Có lẽ hơn ai hết nhà thơ Xuân Diệu hiểu rằng những điều ông muốn ,
ông khát vọng trái ngược với qui luật khắc nghiệt của tạo hoá. Cũng như sau này
khi là nhà thơ của CM XD đã mơ ước có trăm vạn bàn tay, có trăm vạn trái tim để
ôm trọn MN vào lòng
-Như
vậy chỉ 4 câu thơ đầu XD đã nói một cách đầy đủ nhất cảm xúc chủ đạo của bài
thơ : vv để níu giữ vẻ đẹp của trần thể , níu giữ thời gian
2. Từ câu 5 đến câu 12
-Nhà
thơ phát hiện một thiên đường trên mặt đất: bướm ong , hoa lá ,cỏ cây.Đó là
những h/a đẹp nhất chốn vườn trần.
-
Nếu như các nhà thơ mới khác hoàn toàn mất vị trí , định hướng trong không gian
địa lí và ko gian tinh thần đi tìm niềm vui trong một thế giới khác: Chốn bồng
lai tiên cảnh hay tháp ngà tình yêu thậm chí quay về quá khứ đắm chìm trong
điên loạn thì XD ko chấp nhận lối thoát tiêu cực ấy, ông muốn chỉ cho chúng ta
vẻ đẹp của cuộc đời trần thế, Điệp từ “Này đây” lặp nhiều lần , vừa liệt kê vừa
như bày ra trước mắt người đọc những mốn ăn mà tạo hoá ban cho con người. âm
điệu “này đây” mỗi lúc một mạnh cho thấy sự
hấp dẫn kì diệu, sức cuốn hút lạ lùng của một thế giới tưởng như bình thường.
-
Thế giới ấy ngày nào ta cũng thấy , cũng qua vậy mà XD khiến chúng ta phải ngạc
nhiên như lần đầu mới gặp. XD đã nhìn t/g ấy bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn” để khám pha những bí ẩn của nó.Thiên đường ấy giàu có và
phong phú vô cùng : Đồng nội xanh rf, cành tơ phơ phất ,ánh sáng ..
Mỗi
hình ảnh , sợ vật đều toát lên sự sống mãnh liệt, sự trẻ trung hấp dẫn đồng
thời thể hiện cái nhìn đầy thiện cảm, háo hớc của nhà thơ trước cuộc đời trần
thế.
-
XD cũng mang cái buồn chung của thế hệ các nhà thơ mới, nhưng XD khác họ ở chỗ
ko nhjnf t/g màu tang tóc buồn thương, trước sau XD vẫn là người
yêu cuộc sống, và nếu có buồn chăng nữa cũng là bởi ko được hưởng tất cả vẻ đẹp
cuộc sống mà thôi.
-
Đoạn thơ với hàng loạt những từ gợi cảm :Ong bướm, yến anh, tuần tháng mật , khúc tình si, cặp môi gần. XD nhìn c/s bằng cặp mắt của tình yêu. Ong bướm, yến anh là những h/a tượng trưng cho ty, hạnh phúc lứa đôi. Tuần
trăng mật gợi sự sung mãn, tròn đầy của
hạnh phúc. Khúc tình si là cụm từ gợi được nhạc điệu
say mê, du dương đắm đuối của ty.
XD
nói về ty bao giờ cũng như một thứ t/c mãnh liệt, tuyệt diệu nhất. Nó vừa trần
thế, vừa tinh khôi, vừa đồi hỏi một cách vô biên vừa tận hưởng tuyệt đích. Còn
trong bài thơ này, nói về c/s bàng ngôn ngữ ty, Xd như muốn nhắc nhở chúng ta
một diều vô cùng quan trọng: CS cũng đẹp đẽ, đắm say như ty đôi lứa. Nói một cách
khác, trong thiên đường nơi trần thế, tuổi trẻ ty vẫn là thứ đáng trân trọng
nhất.
-
Với nhà thơ, thiên đường trần thế lúc nào cũng là mùa xuân. Thời khắc lưu lại
nhiều hương sắc xuân nhất chính là tháng giêng: Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần. Mùa xuân, tháng giêng đồng
nghĩa với sự trẻ trung, ắp đầy hạnh phúc. . Cách so sánh ở đây thật táo bạo,
mới mẻ. Mùa xuân là từ dùng chỉ thời gian. Thời gian được coi như có hình khối
đường nét rõ ràng. Hơn thấ nữa lại là hình ảnh tượng trung cho một ty yêu rõ ràng
nhất. Thêm vào đó tháng giêng còn được cảm nhận bằng vị giác: ngon; được cảm nhận bằng khoảng cách: gần. Phải chăng về điểm này mà XD được coi là nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới. Và như vậy, thời gian đã được
XD ty hoá, cuộc sống đã được ty hoá sao cho tràn trề hphúc. CS, ty ở đay có
hình khối đường nét cụ thể, có hương vị ngọt ngào say đắm. Chỉ có XD mới có
cách cảm nhận độc đáo, riêng biệt như vậy. Trong thơ xưa, thi nhân thường lấy
thiên nhiên làm chuẩn mực của mọi vẻ đẹp, trong đó có vẻ đẹp con người. Với XD
thì ngược lại. Ông lấy vẻ đẹp của con người trần thế làm chuẩn mực cho mọi vẻ
đẹp. Chỉ có con người là lung linh, nhất là đẹp nhất. Đây chính là quan niệm
tiến bộ đầy chất nhân văn của nhà thơ về nhân sinh, về ty và hp. Vẻ đẹp ấy của
con người như lan toả ra cỏ cây, hoa lá, chim muông. Có thể nói, thiên nhiên
trong thơ XD lúc này đã được con người hoá: ánh sáng chớp hàng mi, yến anh say
khúc tình si… Mọi sự cựa quậy, sinh sôi của tạo vật gắn liền với sinh hoạt của
con người. Sức xuân như đang trào dâng mãnh liệt nhất ở mọi lúc mọi nơi, mọi
cảnh mọi vật và đặc biệt ở trong con người.
-
Lắng sâu trong âm hưởng thơ là hồn thi nhân sung sướng mãn nguyện, mở rộng tấm
lòng đón nhận tất cả những âm vang của đời. Mọi âm sắc, đường nét như được tận
hưởng trọn vẹn bởi tấm lòng khao khát yêu cuộc sống của nhà thơ. TG
viết: Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa. Câu thơ tự nó đã tách ra làm
đôi. Nửa thứ nhất vơi ba âm tiết vanh lên và khép lại cả thế giới thần tiên mà
nhà thơ đã diễn tả ở trên. Nửa còn laị mở ra một trạng thái khác mà ranh giới
chính là từ nhưng. Sau từ đó chính là một nốt lặng diễn tả cái sững sờ,
bối rối của nhà thơ. Cái vội vàng một nửa ấy vừa là ham muốn được tận hưởng,
vừa diễn tả một chút lo sợ, một chút hãi hùng. Nửa câu thơ ấy như là một ciếc
bản lề đẻ nối tiếp ý thơ của phần sau. Xd đã tự đặt ty, cs của mình trong mqhệ
với thời gian, đời người và thực sự cảm thấy hốt hoảng, bất lực. Tgian vẫn tuần
hoàn, đời người một đi ko trở lại, đặc biệt là tuổi xuân càng ko hai lần
thắm lại. Từ nỗi lo lắng đến bàng hoàng
này, nha thơ đã lý giải sự cuống quýt, vội vàng của mình ở khổ thơ sau. Và nếu
xem bài thơ có kết cấu luận đề, thì câu thơ: Tôi sung sướng nhưng… là một phân giải giữa nguyên nhân và hệ quả. Vì quá đắm say c/đời
mà cuộc đời ko thể chờ đợi bất cứ điều gì thì chỉ còn một cách tận hưởng cho no
nê, đã đầy tất cả mọi hương thơm trái ngọt mà tạo hoá ban tặng. Toàn bộ phần
còn lại của thi phẩm minh chúng cho nhan đề của chính nó.
3.Từ câu 13 đến câu 30
-
Diễn tả tâm trạng hoài xuân của thi nhân
-
Sống giữa mùa xuân , cuộc đời tuổi trẻ , thiên nhiên mà lòng ko hề thanh
thản: Tôi ko chờ….
Đang
giữa ngày xuân nhưng t/g vẫn nghĩ rằng đến một ngày xuân qua hạ tới.Có nghĩa là
nhà thơ luôn đăth mình trong dòng chảy bất tận của thời gian mà ham muốn, mà
yêu cuộc sống, mà ngẫm mghĩ về cái hữu hạn của đời người.
-
Với nhà thơ khát vọng nứu giữ t/g chỉ là khát vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy bước
đi của t/g lạnh lùng và khắc nghiệt : xuân tới, xuân qua , xuân non , xuân già. Và cả mùa xuân của đời người cũng đương qua.Điều này cho thấy
trong thơ XD luôn có một quan niệm mới về thời gian . thời gian ko tuần hoàn,
không tĩnh lặng như trong thơ trung đại “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại”.Thời
gian là dòng chảy vô cùng vô tận. Không ai có thể uống nước 2 lần trên một dòng
sông.Đời người cũng vậy, cháy trôi trong Sinh- lão –bệnh – tử. Đời người thật
hữu hạn trước cái vô cùng vô tận của thời gian.
- Xuân
Diệu ko tin và thuyết nhân quả và hồi sinh của đạo phật.Ông luôn ám ảnh
bởi mùa xuân sẽ qua đi ko bao giờ trở lại. Con người sẽ vĩnh viễn trở về cát
bụi, cảm nhận điều đó, nhà thơ quay ra hờn trách tạo hoá: Nói làm chi…còn
tôi mãi”
Sự
trách móc ấy thực ra là những cảm xúc của nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm với khát
vọng muốn phá tung tất cả mọi giới hạn của đời sống và cả những quy luật
khắt khe của đời sống đẻ trường tồn , bất tử .
-
Trong cảm hứng nuối tiếc xót xa ấy, nhà thơ tiếp tục diễn tả tâm trạng hoài
xuân của mình :Còn trời đất… Phải chăng …sắp sửa.
Thế
giới đang rộng mở trước mắt chúng ta với núi sông, lá biếc, gió xinh, hoa nở
chim hót..Nhưng giờ đây ko phải là bức tranh sự sống, nhà thơ cảm nhận thiên
nhiên , đất trời tạo vật cũng có tâm trạng như chính mình.Chúng cũng linh cảm
thấy sự chia phôi, sự tiễn biệt, phai tàn sắp sửa xảy ra. chúng dường như cũng đang hờn giận trách móc tạo
hoá.
Cái
nhìn thời gian cái nhìn cảnh vật xung quanh cho thấy nỗi sợ hãi trong tâm hồn
nhà thơ .Nó ko còn mơ hồ nữa mà trở nên rõ nét, rõ ràng ,và hùng hồn hơn. Nỗi
sợ của con người ham sống.
4. Phần còn lại của bài thơ Vội Vàng.
-
Giọng điệu của đoạn thơ đột ngột thay đổi. ở đoạn trên là âm hưởng trầm buồn
nay trở nên cuống quýt, vội vã, sôi nổi.
-
Cảm xúc thơ ở đây là hệ quả tất yếu của những nhận thức về tgian ở đoạn trên.
Đặt mình giữa dòng chảy của tgian mà tiếc cho cuộc đời ko thể kéo dài, đồng
thời Xuân Diệu cũng ko muốn một cuộc sống vô nghĩa. Nhà thơ như giục
giã chính mình: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm. Mau đi thôi để chạy đua với tgian, chạy đua cùng tuổi trẻ cùng màu xuân cua
rcuộc đời. Nhà thơ sợ chiều tà ngả bóng, sợ tuổi già, sợ tuổi xế chiều một mình
với chiếc bóng âm thầm lặng lẽ, sống mà chỉ như tồn tại, ko hưong sắc, ko tình
yêu… Cảm xúc này còn được XD thể hiện ở nhiều bài thơ khác, nhất là những bài
thơ nói về ty.
Mau
lên chứ vội vàng lên với chứ
Em
em ơi tình non sắp già rồi
Mau
lên chứ vội vàng lên với chứ
Em
ơi em anh rất sợ ngày mai
Khát
vọng cháy bỏng ấy đã khiến nhà thơ tự đề cho mình một phong cách sống:
Thà
một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm
Đây
là một tuyên ngôn sống đúng nghĩa với với tâm hồn XD. Đây cũng là phong
cách riêng của XD trong thi ca.
Ba
chữ Ta muốn ôm được tách ra thành một dòng thơ
rất ngắn nhưng lại nư một sự dồn nén cảm xúc. Giọng thơ cũng hết sức trang
nghiêm, đĩnh đạc nhưng vẫn ko giấu nổi cảm xúc dâng trào. Vẫn là cảm xúc dâng
trào nhưng tg ko dùng đại từ Tôi mà dùng chữ Ta. Cái tôi cá nhân đã trở thành cảm xúc chung
của cả một thế hệ. Mặt khác cái tôi ấy dường như còn nhỏ bé, cô đơn
nên Xuân Diệu muốn có cái ta mênh mang rộng lớn. Dù như vậy Tg
vẫn thấy chưa thật đủ . Dù đã hoà mình vào thế giới của đam mê, của đắm say,
rạo rực, đang vận động ko ngừng cùng nhịp sống Xuân Diệu vẫn còn khao
khát. Cái tham tham đầy cá tính và nhân bản ấy là biểu hiện của một ý thức đúng
đắn về cuộc sống.
-
Khi hiểu giá trị đích thực của cuộc sống XD muốn dang đôi tay bé nhỏ của mình
đê ôm trọn yêu thương của đời. Khát vọng lớn lao ấy được nhà thơ thể hiện qua
điệp từ Ta muốn và mỗi lần nhắc lại là một lần cảm xúc dồn nén hơn, dâng trào
hơn.
*Về nghệ thuật
Nét độc đáo trong cấu tứ.
Bài thơ có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố : Trữ tình và chính luận.
Trong đó, chính luận đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những
rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện về sự mong
manh của cái Đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập
luận, lí giải về lẽ sống vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc
giả, được trình bày theo hệ lối qui nạp từ nghịch lý, mâu thuẫn đến giải pháp.
Là cây bút tích cực tiếp thu thành tựu nghệ thuật thơ trung đại và
đặc biệt cái mới trong thơ phương Tây, Xuân Diệu có nhiều sáng tạo trong cách
tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách diễn đạt mới, hình ảnh mới, ngôn từ mới.
Ví dụ trong đoạn thơ cuối, tác giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo
trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp như : ôm” ( Ta muốn ôm ), riết ( Ta muốn riết ) ,“say” ( Ta muốn say ), thâu ( Ta muốn thâu )…Và đỉnh cao của đam mê cuồng nhiệt là hành
động cắn vào mùa xuân của cuộc
đời, thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và cháy bỏng. Không dừng lại ở đó, tác giả
còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: “chếnh choáng, đã đầy, no nê…diễn tả niềm hạnh phúc được
sống cao độ với cuộc đời.
Kết
bài :
Tri thức văn hoá
Vội vàng và
nhiều bài thơ khác của Xuân Diệu thường gây ấn tượng với công chúng bởi những
lời kêu gọi kiểu :Nhanh
với chứ với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi!
hoặc Gấp lên em! Anh rất sợ ngày mai! Đời trôi chảy, tình ta không vĩnh
viễn!
Khi thi nhân cất cao những lời kêu gọi : Mau lên thôi! Nhanh với chứ! Vội
vàng lên! mà
Hoài Thanh từng nhận xét một cách hóm hỉnh “là đã làm vang động chốn nước non lặng lẽ” thì không có nghĩa là anh ta
đang tuyên truyền cho một triết lý sống gấp từng
bị coi là lai căng và vẫn bị đặt dưới một cái nhìn không mấy thiện cảm của
người phương Đông, một xứ sở vẫn chuộng lối sống khoan hoà, chậm rãi.
Cần phải thấy rằng, bước vào thời hiện đại, sự bùng nổ của ý thức
cá nhân đã kéo theo những thay đổi trong quan niệm sống và đánh thức một nhu
cầu tự nhiên là cần phải thay đổi điệu sống. Ý thức xác lập một cách sống mới
nói trên càng ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc trong tầng lớp trẻ. Phát ngôn của
Xuân Diệu trên phương diện thi ca chỉ có tính cách như một đại diện.
Nhìn ở một góc độ khác, bài thơ bộc lộ nét đẹp của một quan niệm
nhân sinh mới : sống tự giác và tích cực, sống với niềm khao khát phát huy hết
giá trị bản ngã, tận hiến cho cuộc đời và cũng là một cách tận hưởng cuộc
đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét