HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam
1. Tác giả: Thạch
Lam(1910-1942)
a. Cuộc đời:
-
Ông là nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
-
Đặc điểm con người: Sống trầm tĩnh và điềm đạm, rất tinh tế. Đặc điểm ấy để lại
dấu ấn rõ nét trong sáng tác của ông.
b. Quan điểm sáng tác:
-
“Văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên những thứ đen
tối trước mặt mà trái lại văn chương là một thứ vũ khí thanh cao để vừa tố cáo
vừa thay đổi thế giới giả dối và tàn ác và làm cho lòng người được trở nên
trong sạch và phong phú hơn.” Vì thế tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng sáng tác
của ông có xu hướng nghiêng về hiện thực mà “Hai đứa trẻ” là một minh chứng cho
điều đó.
c. Đặc điểm sáng tác.
-
Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn với một lối viết riêng: truyện của ông
thường không có cốt truyện, li kì, đặc biệt. Các tình huống truyện, sự kiện chủ
yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm trạng. ( Các nhân vật thường ít nói
năng, hành động. Vì thế truyện ngắn của ông được gọi là truyện ngắn tâm tình
giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ)
-
Ông là nhà văn mở đường cho kiểu viết truyện ngắn không có cốt truyện li kì.
-Thế
giới nhân vật trong truyện của ông thường là lớp trí thức nghèo khổ ở những
làng quê nghèo, phố huyện nghèo khổ.
-
Không khí chung trong nhiều truyện
ngắn của ông thường có nét buồn, tiêu điều, xơ xác. Sự sống như tàn lụi, mòn
mỏi.
è Các đặc điểm trên được thể hiện rõ trong
truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Tác phẩm:
-
Là truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây là
tác phẩm được coi là tiêu biểu nhất trong phong cách viết truyện ngắn của Thạch
Lam.
Nhân vật chính Liên . Chị em
Liên và An trước đây ở Hà Nội , gia đình sa sút , bố mẹ Liên đã chuyển về một
phố Huyện nghèo , cạnh một cái ga nhỏ . Chị em Liên được bố mẹ giao cho việc
chăm coi cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu , buôn bán , chung sống với những cư dân ở
phố Huyện nghèo này như : Mẹ con chị Tí ( ngày mò cua bắt ốc , đêm đến ra ga
xép bán nước để kiếm thêm tiền nhưng chẳng kiếm được bao nhiêu) , gia đình bác
Xẩm kiếm tiền bằng nghề hát rong ( đêm đến ,ï bày ra mảnh chiếu , hát khản cổ
họng nhưng chẳng nhiều người cho ), Bác Phở Siêu làm nghề bán Phở ( nhưng ở phố
huyện nghèo này phở là hàng xa xỉ phẩm , tối đẩy xe ra , khuya lại đẩy về ).Mấy
đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ (nhặt nhạnh những thanh nứa , thanh tre , hay
bất cứ cái gì của những người bán hàng để lại) .Khách hàng thưa thớt : Bà cụ
Thi ( chiều tối ghé uống cốc rượu rồi đi dần về phía làng , Mấy chú lính
lệ hoặc người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm ghé lại cửa hàng chị Tí uống bát
nước chè ..) . chừng ấy cư dân , lặng lẽ như những cái bóng , sống lẫn với bóng
tối ; đêm nào họ cũng đợi một chuyến tàu khuya đi qua rồi dọn hàng về nhà . Chị
em Liên cũng khoá cửa , Liên nhìn quanh đêm tối , thế giới quanh mình mờ mờ đi
trong mắt chị và cuối cùng ngập vào giấc ngủ B. Đọc - hiểu tác phẩm
I. Bố cục: 3 phần khá rõ.
1. Phần 1: Từ đầu … tiếng cười khanh khách nhỏ dần về cuối làng.
à Cảnh phố huyện lúc
chiều xuống. (Tác giả tập trung thể hiện tâm trạng buồn man mác, mơ hồ, khó
hiểu của chị em Liên trước cảnh ngày tàn.)
2. Phần 2: “Trời đã bắt
đầu đêm… tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu. à Cảnh phố huyện trong đêm tối. ( Tác giả tập trung mô
tả tâm trạng buồn khắc khoải trong cảnh đời chờ mong ước một cái gì tốt đẹp,
tươi sáng hơn cho cuộc sống leo lét,
tù đọng trong hiện tại.
3. Phần 3: Đoạn còn lại. à Cảnh phố huyện nghèo lúc đoàn tàu từ Hà Nội về và tâm trạng
buồn thấm thía về cuộc sống mỏi mòn không thể đổi thay còn những gì tốt đẹp,
tươi sáng mà hai chị em Liên mong ước chỉ là kì vọng quá xa xôi giống như một
đoàn tàu từ Hà
Nội về vụt qua phố huyện.
à
Nhận xét chung : Bố cục 3 phần của câu
truyện đều tập trung lí giải lí do thức đợi được nhìn chuyến tàu từ Hà Nội
về.
1. Tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống lụi tàn leo lét của những
kiếp người sống nghèo đói không ánh sáng, không hạnh phúc, không tương lai.
*Mở đầu là cảnh ngày tàn:
-
Ánh mặt trời trong buổi chiều ấy được tác giả ví như hòn than sắp tàn.
-
Đồng điệu với ngày tàn là chợ tàn: mọi người về hết, tiếng ồn ào cũng mất, trên
mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía… Các sự vật cũng
tàn tạ: cái chõng cũng sắp tàn.
-Cuối
cùng hiện lên giữa cái không gian và thời gian tàn tạ ấy là những mảnh đời,
những kiếp người cũng tàn tạ:
+ Những đứa trẻ đi nhặt rác, tiếp đó
là hình ảnh bà cụ Thi điên xuất hiện - người điên thì cuộc đời cũng gần như tàn
tạ, vô nghĩa.
+ Gánh hàng nước của hai mẹ con chị Tí
với một gia tài còm cõi - tất cả chỉ trên vai người mẹ và bàn tay đứa trẻ. Hai
mẹ con chị ngày thì đi bắt cua, bắt ốc, đêm đến dọn hàng nước nhưng cũng như
mọi hôm, hai mẹ con chị cũng không hi vọng vì chi thốt lên: “Ôi chao, sớm với
muộn mà có ăn thua gì.”
+ Gánh phở của bác Siêu xuất hiện bằng
hình ảnh có vẻ như tươi sáng, đáng giá nhất nhưng lại ế ẩm vì quá xa xỉ, nhiều
tiền, không phải ai cũng mua được.
+ Gia đình bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm
không có người nghe.
+ Nổi bật lên giữa những mảnh đời ấy
là hình ảnh hai chị em Liên. Mặc dù họ có một gian hàng để bán nhưng gia tài
chẳng đáng bao nhiêu. Với gia tài như thế, họ cũng không hi vọng có một cuộc
sống khá giả hơn.
à NX chung: Có
thể nói mỗi con người xuất hiện trong câu truyện đều có một cảnh ngộ riêng
nhưng đều mang một đặc điểm chung là tất cả đều sống trong mòn mỏi, buồn chán,
bế tắc, không một chút hi vọng gì về cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn nhưng
điều quan trọng nhất là tất cả những mảnh đời ấy, cảnh ngộ ấy đã hiện lên qua
cái nhìn bùi ngùi, thương cảm của nhà văn. Tất cả được thể hiện rất rõ qua cách
hành văn, qua những chi tiết tưởng như ngẫu nhiên: mùi vị của đất, cảnh chợ
tàn, hai đứa trẻ nghĩ đến bát phở…đặc biệt là chi tiết ánh đèn leo lét nơi ngọn
đèn hàng nước của chị Tí cứ láy đi láy lại(xuất hiện 7 lần trong tác phẩm) tạo
ra ở người đọc nỗi thương cảm trong khi đó hiện tại là một màn đêm dày đặc đầy
bóng tối. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ngọn đèn ấy gây một ấn tượng day dứt cuối
cùng đi vào giấc ngủ của chị em Liên: “Liên thấy mình sống giữa bao sự xa xôi
không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
2. Nhịp sống ở phố huyện nghèo trong câu truyện cứ lặp đi lặp lại
một cách quẩn quanh đơn điệu, tẻ nhạt và tù túng:
-
Chị em Liên chiều nào cũng ngồi đếm tiền dù họ chẳng bán được bao nhiêu, ngày
nào cũng ngồi trên chiếc chõng sắp tàn và đêm nào cũng kiên nhẫn thức chờ đợi
để được nhìn tàu từ Hà
Nội về.
-
Mẹ con chị Tí dù chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng
-
Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, nhưng bác
chưa hát vì chưa có khách nghe thì thỉnh thoảng góp chuyện bằng tiếng đàn bầu
bật trong yên lặng.
à Cảnh sống của họ thật bấp bênh, bế tắc. Chừng ấy
người trong bóng tối ngày này qua ngày khác cứ sống trong sự quẩn quanh, tẻ
nhạt ấy. Đó là lối sống mà Xuân
Diệu từng viết: “Hết cơm mai rồi
lại cơm chiều”.
à Đó là cuộc sống của những con người trong ao đời bế tắc, tù túng nhưng cũng chính
đó lại là lí do thức đợi tàu của bằng ấy mảnh đời nơi phố huyện nghèo bởi
chuyến tàu đêm từ Hà
Nội về như đem đến cho họ một thế
giới khác hẳn. Đó là hình ảnh của một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc hơn mà
bằng ấy con người trong đêm tối mong ước, hi vọng và hướng tới. Qua đó ta thấy
được cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng với những khát vọng, ước mơ đổi đời của
những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ trong phố huyện nghèo mặc dù hi vọng đó chỉ
mong manh mơ hồ như chuyến tàu vụt qua. Nó quá xa vời, vô vọng như ánh sao trên
trời không thể vươn tới.
3. Tâm trạng nỗ lực, kiên trì thức đợi tàu của chị em Liên.
a. Lí do thức đợi tàu:
-
Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vì đó là hình ảnh của tuổi thơ
hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Nay được nhìn đoàn tàu, hai chị em Liên tưởng
như đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất.
-
Vì đó là hình ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện. Đó
là hình ảnh của tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ hằng
mong ước, chờ đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”.
-
Được nhìn thấy chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một
ngày.
-
Không chỉ vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho
hành khách theo như lời của mẹ.
b. Ý nghĩa của tâm trạng thức đợi tàu:
-
Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn
toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện.
à Qua tâm trạng thức đợi tàu, Thạch Lam đã thể hiện
thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người nhỏ bé sống trong nghèo
nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó, nhà văn như muốn lay tỉnh những con người đang
sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế tắc: “Hãy nỗ lực vươn lên một cuộc sống có
ánh sáng, hạnh phúc”. Nhà văn hi vọng họ không chấp nhận, không cam chịu đựng
sống trong ao đời tù túng, mòn mỏi nơi phố huyện mà hãy chờ đợi, hi vọng hướng
tới một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng hơn. Đó cũng là niềm tin của nhà văn:
cho dù họ sống trong tù túng, mòn mỏi vẫn không mất đi khát vọng hướng tới cuộc
sống hạnh phúc.
à Mặt khác qua tâm trạng đó, nhà văn Thạch Lam lên
tiếng tố cáo, lên án xã hội đã vùi dập, đẩy con người vào cuộc sống tăm tối,
nhất là trẻ thơ. Cuộc sống nơi phố huyện có khác nào mảnh đất cằn cỗi, bạc
phếch mà hai chị em Liên như hai mầm non mọc trên đó sẽ ra sao? Nó sẽ tàn héo,
lụi tàn. àNhà văn lên tiếng đòi
thay đổi cuộc sống, đem lại cho những đứa trẻ cuộc sống xứng đáng hơn, có hạnh
phúc, có tương lai.
4. Qua “Hai đứa trẻ” nhà văn còn thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó
với quê hương, đất nước, thiên nhiên.
-
Qua câu truyện, tác giả đã dựng lên cái gần gũi, thân thiết, rất gần gũi, thân
thiết, gợi cảm.
-
Các nhân vật trong câu truyện dù sống trong cuộc sống tù đọng, leo lét, mòn mỏi
vẫn thiết tha với cuộc sống nơi phố huyện: “Một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi nóng
của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi
riêng của đất, của quê hương này”.
-
Dù sống trong nghèo khổ, lam lũ, hai đứa trẻ vẫn thiết tha ngắm sao và tìm sông
Ngân Hà và con vịt theo
sau ông thần Nông, ngắm những đợt hoa bàng khẽ rơi khe khẽ, vệt sáng của những
con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây.
à Đó là những hình ảnh của quê
hương, đất nước rất thân thuộc quanh ta nhưng qua cách hành văn nhẹ nhàng, dịu
dàng đầy chất thơ đã trở nên gợi cảm biết bao. Từ đó nhà văn bồi đắp cho người
đọc tình yêu quê hương đất nước.
5. Nghệ thuật của truyện
a.
Nghệ thuật rất đặc sắc về tả cảnh dựng cảnh: Trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
không có sự độc đáo về cốt truyện mà cái thành công nhất cảu tác phẩm là ở việc
dựng cảnh và tả cảnh. Cảnh được nhà văn tạo dựng trong tác phẩm có ba loại:
cảnh thiên nhiên, cảnh con người và sự tương quan phối hợp giữa cảnh thiên
nhiên và con người
Tác
giả tả cảnh thiên nhiên chỉ bằng những nét chấm phá rất gọn nhưng nhà văn đã
làm rõ được ba khía cạnh của thiên nhiên: màu sắc (phương đông đỏ rực như lửa
cháy, những đám mây màu hồng, hòn than sắp tàn, những rặng tre thì đen lại), âm
thanh (tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng hoa bàng rụng), mùi quê
(ẩm móc). Tác giả miêu tả cảnh con người, tác giả đã tả nhiều hạng người: những
người nông dân lam lũ như chị Tý, những người có cuộc đời tàn tạ như bác Xẩm,
bà cụ Thi, lũ trẻ thì lem luốc lam lũ như lũ trẻ ở chợ, lũ trẻ con bác Xẩm, chị
em Liên sống thì bế tắt buồn chán.
Cảnh
thiên nhiên và con người: bóng tối khi thì đen lại khi thì sẩm đen, khi thì tối
lên tất cả ngập chìm ngập tràn trong bóng tối, bóng tối bao trùm. Ánh sáng khi
thì chấm bếp lửa bác Xiêu, những hột sáng cất ra ngọn đèn chị em Liên, những
khe sáng của những cửa hàng đối diện, một vùng sáng nhỏ của ngọn đèn chị Tý.
Bóng tối nuốt chửng ánh sáng.
b.
Nghệ thuật tả tình, nghệ thuật diễn tả tâm trạng: Ở tác phẩm này nhà văn không
đi sâu xây dựng nhân vật điển hình, xây dựng nhân vật tính cách hành động mà
nhà văn chỉ đi diễn tả tâm lí, tâm trạng của con người được thể hiện qua hoàn
cảnh sống. Tiêu biểu cho tâm trạng con người ở đây là tâm trạng của chị em
Liên, trong đó chủ yếu là tâm trạng của người chị có tên là Liên. Tâm trạng này
có những cung bậc khác nhau ứng với mỗi hoàn cảnh khác nhau.
Chẳng
hạn khi ngắm cảnh chiều tàn, chợ tàn thì tâm trạng của Liên là buồn man mác.
Khi thấy cảnh những đứa trẻ lam lũ thì Liên động lòng thương. Khi thấy cảnh
sống của con người diễn ra nhàm chán trong bóng tối thì tâm trạng của Liên là
buồn chán và khát vọng về một cuộc sống khác, một sự thay đổi. Để thể hiện cái
khát vọng này thì tác giả thể hiện tâm trạng của Liên là luôn mơ về một cuộc
sống khác và luôn thức để đợi chuyến tàu đêm.
c.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ: Để phù hợp với câu chuyện dường như không có cốt
truyện, phù hợp với một không gian tẻ nhạt buồn chán nhà văn đã có cách dùng
ngôn từ phù hợp. Đó không phải là ngôn từ cao to búa lớn mà là những ngôn từ
rất phù hợp với cảnh quê tình quê. Khi nói về cảnh thiên nhiên muôn đưòi vẫn êm
dịu vẫn đẹp thì tác giả đã dùng những từ rất phù hợp như êm như ru, êm như
nhung. Hay để nói về bóng tối dày đặc thì tác giả đã dùng như đen lại, sẫm đen,
tối đen, chìm trong bóng tối, ngập tràn trong bóng tối. Khi nói về những ánh
sáng nhỏ nhoi thì nhà văn lại đưa ra những từ ngữ rất riết rống như chấm sáng,
hột sáng, khe sáng.
Đây là bài lí giải em đọc để hiểu nhé
1. Cái tình huống nảy ra truyện là hai đứa trẻ trên một phố huyện nghèo. Hai cái mầm
cây nhú lên trên một mảnh đất cằn cỗi bạc màu. Hai mầm sống non tơ trên một nơi
không có sinh khí. Sự trái ngược, trái khoáy kia chứa đựng một mâu thuẫn nhân
sinh làm day dứt lòng người, cứ gặm nhấm những lo âu về số phận con người. Hình
dung như thế ta mới hiểu vì sao bối cảnh lại là một phố huyện nghèo, và vì sao
nhân vật trung tâm của câu chuyện lại là An và Liên.
1.1. Cả thân nhân nhà văn, cả những người nghiên cứu đều
xác nhận cái phố huyện này có nguyên mẫu từ phố huyện Cẩm Giàng, nơi Thạch Lam
từng sống một tuổi thơ buồn và không ít lận đận. Tuy nhiên, qua ngòi bút Thạch
Lam, nó đã thành một Phố Huyện viết hoa. Nghĩa là thành một miền đời bị quên
lãng. Người ta có thể thấy ở đây những gì quen gặp nhất, thân thuộc nhất ở một
phố huyện. Cả những cảnh vật đơn sơ mà đầy cảm kích. Cả những đồ vật tồi tàn mà
gắn bó nặng nghĩa. Cho đến những bóng dáng thân quen trong cái nhịp đời nghèo
nàn và bình lặng của đám cư dân hiền lành chốn phố huyện chưa khác mấy so với
cái gốc quê… Tất cả cứ co mình, thu mình trong một bầu không khí rất đặc trưng
của phố huyện thời trước : bầu không khí thiếu sinh khí - hơi thở của sự sống
đang đuối dần, héo hắt, ảm đạm.
Thạch Lam có một lối cảm
nhận và lối điển hình hoá rất riêng. Để gây ấn tượng thật xót xa và thấm thía
về một phố huyện tàn tạ héo úa, Thạch Lam đã chọn một thời điểm, sự kiện, cảnh
vật, đồ vật và nhân vật rất hoà điệu, ăn nhập với nhau đến kì lạ. Một ngày tàn kéo dài đến đêm
tàn. Một phiên chợ tàn. Một hệ thống cảnh vật và đồ vật tàn. Trên đó hiện ra
những kiếp người tàn. Hãy đi vào từng bình diện ấy. Đúng là, mỗi mảnh đất
thường hiện lên cái diện mạo thật của nó vào một thời điểm nào đấy.
Với phố
huyện này là lúc chiều tàn. Cứ nắng tắt dần, tiếng trống thu không rời rạc vang
lên trên chòi canh nhỏ, là phố huyện bắt đầu hiện ra bộ mặt thật của nó. Đó là
một miền quê xơ xác, tiêu điều, quẩn quanh, mòn mỏi. Âm thanh thưa thớt dần,
ánh sáng yếu ớt dần, hơi thở của một ngày cứ tan rã dần dần theo từng thời
khắc. Đến đêm tàn thì cả miền quê như chìm vào màn đen không đáy, "xung
quanh đầy bóng tối và sự tịch mịch". Phố huyện bị nuốt dần vào màn
đêm hoang vu thăm thẳm như chìm nghỉm vào hư vô. Thạch Lam tả một phiên chợ quê
vào dịp chính phiên, nhưng không để thấy vẻ sầm uất, sôi động ; trái lại, làm
nổi lên tất cả lèo tèo, thưa thớt, ế ẩm. Đúng lúc chợ tàn, nên hình ảnh sự sống
càng tan rã, thê lương. Ngày chính phiên mà thế, hỏi rằng những ngày khác còn
thảm hại như thế nào ! Cảnh vật thì một dãy phố với những căn nhà xiêu vẹo
tranh tối tranh sáng, một nhà ga xép cỏn con, tủi sầu, côi cút, một vài lều chợ
ọp ẹp đứng gá trên bãi rác rưởi, một chòm làng trầm lặng sau rặng tre lêu nghêu
trong bóng tà dương, một ngôi quán được tả cận cảnh thì phên vách rách rưới đến
nỗi dán cả giấy nhật trình lên cũng không kín…Và đồ vật : có một cái chõng, thì
ọp ẹp sắp gẫy ; có một manh chiếu, thì xơ xướp ; có một cây đàn, thì cũ kĩ còm
cõi ; có một cái chậu sắt tráng men, thì rúm ró, long lở ; có những ngọn đèn
dầu, thì đều tù mù leo lét... Trên cái nền phông cảnh ấy, hiện ra những kiếp
người tàn. Cả những cư dân kiếm sống ban ngày, lẫn cư dân kiếm sống ban đêm đều
là những kiếp người ngoi ngóp. Những người này vừa lùi vào bóng tối, thì những
người kia từ bóng tối lần lượt đi ra. Có cả những kiếp người tàn hoàn toàn theo
nghĩa đen của chữ : bác Xẩm, bà cụ Thi điên - những phế nhân, người thì còn đó
mà đời đã tàn quá nửa. Phố huyện khác chi một sân khấu thu nhỏ cả cuộc đời. Con
người chường mình ra trên đó có thể đổi vai cho nhau mà không ai đổi phận được
cho ai. "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho
sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Không phải họ đang sống mà đang cầm
cự trong vô vọng… Tất cả cái thế giới kia được mô tả một cách tự nhiên kín đáo
và sinh động, chúng cộng hưởng với nhau góp phần tạo ra cái bầu không khí ảm
đạm tàn héo vây phủ lên toàn bộ câu chuyện. Và, về khuya, ở chốn phố huyện kia
chỉ còn có bóng tối và sự tịch mịch hoàn toàn ngự trị.
1.2. Hai đứa trẻ này có nguyên mẫu ngoài đời là chính chị
em Thạch Lam trong những năm thiếu thời khi gia đình còn ở phố huyện Cẩm Giàng.
Phải cái đận sa sút, hai chị em đã phải nghỉ học để trông coi một cửa hàng tạp
hoá, phụ giúp vào việc sinh nhai của gia đình. Dĩ nhiên, khi vào tác phẩm này,
tất cả đều đã được điển hình hoá. Phải là Liên, một cô gái vừa lớn thì mới có
câu chuyện này. Vừa mới lớn, nghĩa là lòng còn nguyên niềm thiết tha sống : cả
lòng yêu mến cuộc sống lẫn niềm hăng hái sống đều còn ăm ắp, tinh khôi. Thế mà
lại phải sống ở một miền quê cằn cỗi héo úa, sự sống đang tàn đi. Làm sao không
trăn trở và mơ tưởng đến một cuộc sống khác được ! Vừa mới lớn, nghĩa là tâm
hồn hết sức nhạy cảm. Thức nhận có thể chưa sâu sắc, nhưng cảm nhận thì đương ở
độ nhạy nhất của hồn người. Mối liên hệ tinh vi giữa tâm hồn và ngoại giới còn
đương như muôn vàn sợi tơ mong manh và vô cùng mẫn cảm. Nó cho phép Liên cảm
được hết bầu sinh khí tàn úa của phố huyện ấy. Với nhân vật như thế, Thạch Lam
mới có thể đi sâu diễn tả đời sống tâm tư trong những xao động tâm hồn tế vi và
phong phú. Với nhân vật như thế, tác giả mới có thể chọn cho câu chuyện một kết
cấu phù hợp : dựa theo mạch diễn biến của tâm trạng Liên. Cũng tức là, nhờ thế
văn phẩm mới có dịp bộc lộ hết những ưu thế của thể loại truyện ngắn trữ tình
Thế còn An ?
Nó hãy còn bé dại thế, liệu đã cảm được gì ? Đừng nghĩ rằng nó chỉ đơn thuần là
một vai phụ, một cái bóng của chị gái mình. An là một thành công không kém gì
Liên. Đúng là còn ngây thơ, An chưa thể có lối cảm, chưa thể có những xao động
tâm hồn và những dòng tâm tư giống như chị gái mình. Nhưng không có nghĩa là An
chưa hề có một nội cảm riêng. An cũng đã cảm được hết. Thực ra, trong hai chị
em, Liên có phần dễ mô tả hơn. Liên đã ít nhiều có đời sống ý thức, lại thuộc
độ tuổi chưa xa lắm so với tâm tư của người viết, nên ngòi bút Thạch Lam dễ
nhập vai hơn, rộng đường xoay sở hơn. Còn An, đời sống ý thức chưa thật rõ rệt,
lại đã quá xa so với tuổi trưởng thành của người viết, nhà văn khó hoá thân
hơn, đất xoay sở hẹp hơn. Thêm nữa, An đã thực sự trở thành một bài toán với
những đòi hỏi trái khoáy : một mặt phải có được sự ngây thơ của lứa tuổi -
không thế, hình tượng sẽ giả tạo ; mặt khác, An còn là đứa trẻ của phố huyện
này - nghĩa là ngay trong cái ngây thơ kia, An đã mơ hồ cảm được cái bầu không
khí mòn mỏi úa tàn của phố huyện này. Một ngòi bút non tay khó mà giải được nỗi
oái oăm đó. Còn Thạch Lam đã có những giải pháp rất hiệu quả : với Liên, ông
dùng lối mô tả trực tiếp những cảm giác, cảm xúc và các phức hợp tâm tư với
những biến thái mơ hồ hư thoảng nhất ; với An, ông theo lối gián tiếp, tức là
dùng ngoại hiện. Vì thế mà thành công. Hãy đọc lại An. Ai là người cảm thấy
bóng tối trước hết ? An. Bằng chứng là, sau khi dọn hàng, việc An làm là loay
hoay thắp đèn.("Em thắp đèn lên chị Liên nhé ?"-"Hẵng thong
thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo ở trong ấy muỗi.").
Ai là người nhận ra cái chõng sắp gãy ? An. ("Cái chõng này sắp gãy
ròi chị nhỉ ?" - "Ừ để rồi chị bảo mẹ mua cái khác thay vào.").
Không thể thức dai như chị, An mỏi trí phải ngủ trước. Nhưng vẫn dặn chị tàu
đến thì đánh thức dậy. Một đứa bé bình thường, khi được gọi thế chưa chắc đã
dậy, hoặc nếu dậy thì còn uể oải, ươn ao, ngáp vặt chán mới tỉnh. An không thế.
Nghe chị gọi, An lập tức nhỏm dậy, dụi mắt tỉnh hẳn. Rồi cùng chị nhìn đoàn
tàu. Sự ấy cho thấy điều gì ? - Nhìn đoàn tàu đã thực sự là một nhu cầu sống
của An, chừng nào còn chưa được nhìn đoàn tàu, chừng ấy nó chưa thể ngủ yên.
Và, ai là người nhận thấy tàu hôm nay vắng đi ? Lại cũng An.("Tàu hôm
nay không đông nhỉ, chị Liên nhỉ ?"). An rất thèm đông vui ồn ào sôi
động. Chỉ cần tàu kém đông là nó đã thất vọng rồi. Rõ ràng từ thẳm sâu trong
lòng trẻ còn ngây ngô của mình, An đã cảm được cái điệu sống mòn mỏi, cũng như
cái không khí quẩn quanh héo hắt buồn tẻ ở phố huyện này. Từ trong sâu thẳm,
lòng trẻ của nó đã chối bỏ, không hoà nhập với điệu sống ở đây, đã muốn hướng
tới một cuộc sống khác. Chỉ cần những chi tiết ngoại hiện như thế, Thạch Lam đã
hé mở cho ta cái thế giới nội cảm không kém những xao động thơ trẻ mà cũng đầy
mẫn cảm của An. Nếu Liên là bè chủ thì An quả là một bè trầm song tấu trong nhạc
khúc buồn mênh mang của phố huyện. Cả hai đã phụ hoạ nhau tạo nên cái phần đậm
nhất, thấm thía và day dứt nhất trong thế giới trữ tình của truyện ngắn này.
Chọn hai đứa trẻ làm tâm điểm để triển khai một truyện
ngắn trữ tình như thế, chẳng phải là một lựa chọn rất Thạch Lam hay sao ?
Hai đứa trẻ trên một phố huyện nghèo là một tương phản
làm dậy lên niềm khát khao của người trong cuộc (nhân vật), làm dâng lên niềm
thương cảm của ngừời viết (tác giả), chẳng phải đó là những nguồn cội cho nội
dung và giọng điệu sẽ àm nên cái diện mạo trữ tình của truyện ngắn này
hay sao ?
1.3. Vì lẽ ấy mà diễn biến của tình huống cũng hiện thành
và hiện trong diễn biến của tâm trạng hai đứa trẻ, nhất là Liên. Ngày nào cũng
thế, cứ chiều đến là chị em Liên lại đối diện với cảnh tàn úa đó của mảnh đất
này, đối diện với những kiếp người kia. Họ là hiện tại của phố huyện, nhưng
cũng là tương lai của Liên. Nếu cuộc sống này không có gì thay đổi thì một mai
Liên sẽ trở thành những con người ấy. Tâm trạng của Liên cũng cứ thế hiện dần :
ngao ngán buồn thương cho hiện tại, nhớ tiếc hoài niệm một quá khứ đã mất và mơ
tưởng vào một tương lai xa xăm mơ hồ. Tựu trung nó là gì, nếu không phải là
niềm khao khát được đổi đời ? Thạch Lam sẽ mô tả thật tinh vi ngay cả những xao
động mong manh nhất của tâm trạng ấy với những diễn biến tự nhiên nhất của nó :
chiều về buồn mơ hồ ; đêm về buồn khắc khoải ; tàu về buồn vui chen lấn - theo
tương quan vui thoáng qua buồn dai dẳng, vui vẩn vơ buồn thấm thía, chưa kịp
vui đã lại buồn rồi ; cuối cùng, tàu đi, tâm trí cứ mỏi mệt dần rồi tắt lịm vào
trong giấc ngủ vùi giữa màn đêm. Mô tả hai đứa trẻ trên một phố huyện nghèo như
thế, Thạch Lam đã bày tỏ được nỗi lo âu về số phận con người. Hai đứa trẻ trên
phố nghèo, hai cái mầm cây trên một mảnh đất bạc màu, cằn cỗi. Liễu chúng có
thể trở thành hai cái cây tươi tốt không, hay sớm bị héo úa đi như những cây
kia, những con người kia ?
Nghĩa là một tình thế cho phép Thạch Lam phát huy được sở
trường của ngòi bút văn xuôi trữ tình. Đồng thời nó cũng cho phép nhà văn gửi
gắm được niềm trắc ẩn sâu xa của mình dành cho những con người nhọc nhằn bất
hạnh trên cái mặt đát này.
2. Nhưng sự kiện chủ chốt qui tụ toàn bộ thiên truyện này
lại là cuộc đợi tàu của Liên và An. Nói cách khác, tình huống bao trùm toàn bộ
tác phẩm lại là cuộc đợi tàu của hai đứa trẻ trên phố huyện nghèo. Đây là cuộc
đợi tàu lạ lùng. Lạ vì chúng đợi tàu chẳng phải vì một mục đích nào thiết thực
(không đợi hàng, không đón ai, không có người thân nào của chúng trên đoàn tàu
ấy ; chúng đợi tàu chỉ để nhìn đoàn tàu, thế thôi). Lạ vì không thiết thực mà
ngày nào chúng cũng cố đợi. Chừng như chưa được nhìn đoàn tàu thì chúng chưa
được sống trọn vẹn một ngày.
2.1. Lôgic nào ngầm chứa trong tâm trạng chờ đợi kia ?
Tìm kiếm câu trả lời, ta không khỏi giật mình vì thấy rằng : Thạch Lam không
chỉ mô tả hiện thực bằng mẫn cảm nghệ thuật, mà còn bằng cả cảm thức
triết học nữa.
Nhìn vào tâm lí thuần tuý, tâm trạng của Liên là một tâm
trạng lãng mạn khá điển hình. Bất hoà với thực tại, cái tôi lãng mạn thường
thoát vào trong mơ ước để tìm kiếm một thực tại khác thay thế. Nó gặp một thực
tại giờ đây đã là quá khứ. Tức là thực tại trong hồi tưởng. Người ta đến với
quá khứ ấy bằng và chỉ bằng hoài niệm thôi. Nhưng quá khứ chỉ có thể hồi hiện
như những kỉ niệm đẹp chứ không thể phục sinh, không thể quay về. Cho nên hoài
niệm về một quá khứ đã mất chỉ có thể là an ủi chốc lát thôi. Không bằng lòng
với nhớ tiếc dĩ vãng, cái tôi lãng mạn lại tìm kiếm thực tại trong huyễn tưởng
và viễn tưởng. Biết bao kẻ đã vẽ ra trong tưởng tượng của mình về một thế giới
khác, để mà hằng ngày làm những cuộc phiêu du vào chính cái thế giới mà mình vẽ
ra đó. Liên không phải một nghệ sĩ thoát li. Liên là một con người thực tại.
Nên mơ tưởng của Liên về một cuộc sống khác cũng rất thực tại. Hằng ngày Liên
chờ đợi đoàn tàu và gửi vào đoàn tàu ấy cái mơ tưởng của mình. Đoàn tàu này
chạy đến từ Hà nội, nơi Liên từng được sống một tuổi thơ vui tươi sung sướng.
Tuy xa xăm, nhưng với Liên, Hà nội là có thật. "Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà nội xa xăm, Hà nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.". Chờ đợi
và nhìn đoàn tàu là một nhu cầu tâm lí rất tự nhiên và thiết yếu của chị em
Liên. Thạch Lam đã mô tả những diễn biến ấy của tâm trạng Liên bằng ngòi bút
tinh vi của một nghệ sĩ có khả năng làm sống dậy cả những gì vốn mong manh hư
thoảng nhất của hồn người.
2.2. Nhưng ẩn sâu dưới lôgic tâm lí còn là một lôgic
triết học. Ta có thể thấy trong tương quan bộ ba : Hà nội - Phố huyện - Đoàn tàu. Phố huyện là hiện tại tàn úa. Hà nội
là quá khứ vàng son. Còn đoàn tàu vừa là một biến thể của Hà nội vừa là một
viễn tưởng tương lai. Thực ra sự tương phản giữa Thủ đô và Phố huyện như đối
lập giữa trung tâm và ngoại vi, giữa chốn phồn hoa đô hội ngập tràn sự sống và
nơi heo hút hoang liêu nghèo nàn sự sống, giữa vui và buồn, giữa hạnh phúc và
bất hạnh … vốn là môtip phổ biến không chỉ trong văn học đương thời, không chỉ
trong văn học Việt nam. Nhưng mô tả những nơi chốn ấy thành những biểu tượng
vừa chân thực sống động vừa giàu hàm ý tượng trưng như ở đây thì không phải dễ
gặp. Chính điều này làm nên một cấu trúc trữ tình mang tính thơ cho thiên
truyện "Hai đứa trẻ".
Tại sao Liên lại bất hoà (không thoả hiệp, không bằng
lòng, không chấp nhận) với thực tại phố huyện ? Vì chốn này sự sống đang đuối
dần. Liên nhớ tiếc Hà nội, mơ tưởng theo đoàn tàu đều vì những nơi đó đèu dồi
dào sự sống. Chúng ta đều biết, ánh sáng và âm thanh là những dấu hiệu của sự
sống, bóng tối và tịch mịch là dấu hiệu của hư vô. Nơi nào có ánh sáng, nơi ấy
có sự sống ; trái lại, nơi nào bóng tối ngự trị, thì sự sống đang bị đe doạ.
Cũng như thế, nơi nào có âm thanh sôi động tươi vui, nơi ấy sự sống đang lên,
mạnh mẽ, khoẻ khoắn ; trái lại, nơi nào âm thanh tắt lặng, nơi ấy sự sống đang
rời bỏ đi. Có ngẫu nhiên đâu, khi Thạch Lam mô tả phố huyện như là nơi ngự trị
của bóng tối và sự tịch mịch (Câu cuối cùng của thiên truyện :"…Liên
ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở phố, tịch mịch và đầy bóng
tối"). Trái lại, Hà nội thì "sáng rực vui vẻ và huyên náo"(Đèn
nhiều và những cốc nước lạnh xanh đỏ trong kí ức An và Liên đều là những biến
thể khác nhau của ánh sáng !). Đoàn tàu cũng thế, "lấp lánh"
và "rầm rộ" (Nếu tiếng còi vang, tiếng bánh siết trên đường
sắt, tiếng hành khách ồn ào… đều là những biểu hiện của một thứ âm thanh khỏe
khoắn sôi động, thì ánh đèn pha, cửa kính sáng, rồi đồng kền lấp lánh đều là
hiện thân của một nguồn sáng mạnh mẽ !). Mối liên hệ giữa những cảm xúc sâu xa
về Hà nội - Phố huyện - Đoàn
tàu trong tâm hồn Liên đã
hình thành một cấu trúc tự nhiên của tâm trạng nhân vật. Đó là niềm khao khát
sống, khao khát đổi đời.
Ta hoàn toàn có thể mô hình hoá được cấu trúc đó. (Xem sơ
đồ)
Cấu trúc tâm trạng của Liên
LIÊN
Hoài niệm Ngao ngán -
Buồn thương Mơ tưởng
Quá khứ Hiện
tại Tương
lai (mt)
Hà
nội
Phố huyện
Đoàn
tàu
- Ánh
sáng Bóng
tối
- Ánh sáng
-ồn ào
- Tịch
mịch
- Huyên náo
(Đầy sự sống) (Thiếu sự
sống) (Đầy sự sống)
KHAO KHÁT ĐỔI ĐỜI
3. Vì sao chị em Liên lại cố thức để chờ đợi đoàn
tàu ? Trả lời câu hỏi này phần nào cũng đồng thời là giải mã hình ảnh đoàn tàu
vậy.
3.1. Đoàn tàu là hoạt động sống cuối cùng của phố huyện.
Tàu đến có làm khuâý động bầu không khí hoang vắng của phố huyện lên một chút.
Phố huyện có bừng tỉnh giây lát trong một không khí ồn ào. Còn sau khi đoàn tàu
đi khỏi, cả phố huyện sẽ thu mình trong bóng tối như một miền đất chết, như
chưa từng có phố huyện trên đời. Chúng cố đợi là để được hoà vào nhịp sống sôi
động hiếm hoi đó. Nghĩa là từ sâu trong hồn hai đứa trẻ có một sự chối bỏ,
không chịu thoả hiệp với cuộc sống tẻ ngắt ở chốn này. Nghĩa là chúng thèm sống
biết bao ! Nếu còn một đoàn tàu khác, hẳn chúng cũng sẽ cố đợi chờ thôi.
3.2. Đoàn tàu là niềm vui duy nhất trong ngày. Sớm bị
cuộc sống cướp mất tuổi thơ, ném vào cuộc mưu sinh cùng với người lớn, nhưng
chị em Liên vẫn cứ là "Hai đứa trẻ", cái tên của tác phẩm nói với ta
điều đó. Nghĩa là trong chúng vẫn còn nguyên những nhu cầu của trẻ con : nhu
cầu vui. Trẻ con sống làm sao thiếu được những trò vui, trò chơi, đồ chơi.
Nhưng ở phố huyện này biết tìm đâu ra. Những thứ ấy cũng thành đồ xa xỉ như phở
của bác Siêu rồi. Chúng phải tự túc để bù vào thiếu hụt ấy. Thế là đoàn tàu trở
thành niềm vui duy nhất của chúng. Với bé An, có thể nói, đoàn tàu đã thành một
thứ đồ chơi. Chừng nào chưa được chơi cái trò nhìn đoàn tàu, chừng ấy chưa thể
ngủ yên, chưa sống trọn vẹn một ngày. Đoàn tàu của thiên hạ trở thành đồ chơi
hờ trong chốc lát của An. Chị em Liên muốn đến gần để được nhúng mình vào không
khí đông vui, vào vùng sáng rực lấp lánh của đoàn tàu. Ngẫm ra thì đó chỉ là
vui nhờ, vui ghé, vui lây thôi. Tội nghiệp !
3.3. Đoàn tàu là sứ giả của một cuộc sống khác. Vị sứ giả
vừa mời gọi vừa lạnh lùng. Thạch Lam viết :"Con tàu đã đem một chút
thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn…". Nó hoàn toàn tương
phản với phố huyện. Vụt qua trời đêm của phố huyện như một vệt sao băng, đoàn
tàu cho chúng biết : đâu đó bên ngoài phố huyện này vẫn có một thế giới khác, ở
đó cuộc sống tươi vui hơn, sôi động hơn, đáng sống hơn. Trong chúng lại nhen
lên những mơ tưởng. Chúng chưa kịp vui thì, cũng đúng như một vệt sao băng,
đoàn tàu đã mất hút vào bóng tối, mang theo luôn vào bóng tối những mơ tưởng
của Liên. Chạy đến từ Hà nội, chạy đến từ một tuổi thơ đã mất, đoàn tàu đã là
một tia hồi quang cho chúng được nhìn lại tuổi thơ tươi vui trong chốc
lát. An ủi thì ít, xót xa thì nhiều. Nhưng, cuộc sống phố huyện khác nào
như cái ao tù vô hình đang muốn nhấn chìm cuộc sống của chị em Liên. Đoàn tàu
với chúng cũng tựa hồ một cái phao tinh thần. Cố gắng chờ đợi là một nỗ lực (mơ
hồ mà rõ rệt) của chị em Liên cố ngoi lên bám víu vào cái phao vừa nhỡn tiền
vừa vu vơ ấy để khỏi bị chìm hẳn đi. Tiếc rằng, đoàn tàu cũng chỉ như một ảo
ảnh thôi. Vả chăng, đoàn tàu hôm nay đã vừa kém đông lại vừa kém sáng đi nhiều
rồi. Buồn lại thêm buồn !
Vậy đấy, việc hai đứa trẻ con ngồi đợi đoàn tàu, trong
mắt người đời có lẽ chỉ là một việc bâng quơ không đâu, thậm chí vô nghĩa. Thế
mà Thạch Lam lại đã thấy trong đó một ý nghĩa không đùa, thấy nó chứa đựng một
khát khao không chỉ của hai đứa trẻ, không chỉ của phố huyện ấy, mà là của cả
cái thế giới này : khao khát đổi đời. Thông điệp nhà văn muốn nói qua đó là :
hãy cứu lấy những đứa trẻ, cứu lấy tương lai ! cần phải thay đổi cái thế giới
tăm tôi này đi ! Hãy mang đến một cuộc sống khác xứng đáng với con người hơn,
một cuộc sống mà con người có quyền sống trong hi vọng, chứ không phải đang tàn
đi trong vô vọng thế kia. Đó là thông điệp của một tấm lòng được chuyển tải
bằng một tài năng.
Ý
nghĩa hình tượng con tàu trong tác phẩm
Con
tàu là sản phẩm của nền văn minh phương Tây, xuất hiện ở Việt Nam trong bối
cảnh người Pháp tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương. Sự xuất
hiện của nó không chỉ làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội, mà còn đem đến
cho văn chương Việt Nam một nguồn thi liệu mới. Giờ đây, bên cạnh hình ảnh con
thuyền - bến sông, trong văn chương nước nhà đã có thêm hình ảnh sân ga - con
tàu. Giữa rất nhiều sáng tác trước 1945, chúng ta thấy truyện ngắn Hai
đứa trẻ của Thạch Lam đã miêu tả thành công hình tượng con tàu - hình
tượng mở ra nhiều khía cạnh khác nhau của hiện thực đời sống xã hội đương thời.
Trước hết, hình tượng con tàu được nhà văn
miêu tả nhằm thể hiện tình trạng tàn lụi của cuộc sống. Cuộc sống "đang
cùn đi, gỉ đi" (Nam Cao) vốn là một chủ đề phổ biến trong văn
chương trước cách mạng tháng Tám. Với mỗi nhà văn, chủ đề này sẽ được thể hiện
theo từng cách khác nhau. Trong Hai đứa trẻ, hiện thực cuộc sống
được nhà văn Thạch Lam quan sát qua tình huống con tàu về ga. Như đã biết, bối
cảnh câu chuyện Hai đứa trẻ là khu phố huyện nghèo. Ở đây có
đường sắt chạy qua, có sân ga để con tàu theo lịch trình hằng đêm về đón và trả
khách. Con tàu vô hình trung đã trở thành một phần cuộc sống của khu phố huyện.
Nó là niềm hy vọng của nhiều người trong cuộc mưu sinh. Bởi vậy, đêm đêm, mọi
người vẫn thức để đợi con tàu về ga. Với chị em Liên, việc đợi tàu chủ yếu vì
một lí do khác. Trong tác phẩm, hình tượng con tàu được miêu tả qua cái nhìn
của chị em Liên. Nghệ thuật miêu tả của nhà văn theo lối từ xa đến gần. Khi con
tàu sắp về đến sân ga, nó được nhận ra qua "ngọn lửa xanh
biếc" và tiếng còi "trong đêm khuya kéo dài ra theo
ngọn gió xa xôi". Gần hơn, con tàu hiện ra với "một làn
khói bừng sáng trắng", với "các toa đèn sáng trưng, chiếu
ánh cả xuống lòng đường". Mọi hình ảnh, âm thanh, ánh sáng… của đoàn
tàu đều được hai chị em Liên quan sát kỹ lưỡng. An nói với Liên: "Tàu
hôm nay không đông chị nhỉ". Câu nói này chỉ ra hai hiện thực. Thứ
nhất, chị em Liên vẫn hằng đêm thức đợi tàu. Thứ hai, so với trước, chuyến tàu
hôm nay vắng khách hơn. Ở một hoàn cảnh khác, chuyện đông khách, vắng khách sẽ
là chuyện bình thường. Nhưng trong trường hợp này, nhận xét của An có ý nghĩa
khắc sâu chủ đề tư tưởng "cuộc sống đang tàn lụi" của nhà văn. Để
thấy rõ điều này, cần phải đặt câu nói của An trong hệ thống những câu văn khác
của tác phẩm. Chúng tôi muốn nói tới ba câu văn, đoạn văn sau:
- "Hôm nay, ngày phiên mà bán hàng
cũng chẳng ăn thua gì".
- "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra
nhỉ?".
- "Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng
cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi,
cũng im lặng tối đen như ngoài phố".
Câu thứ nhất là cảm nghĩ của Liên, câu thứ
hai là lời chị Tý, còn đoạn trích dẫn thứ ba là miêu tả của nhà văn về những
hàng quán ở sân ga. Suốt một ngày chợ phiên mà Liên bán hàng "chẳng
ăn thua gì". Khách hàng chị Tý không ra mua hàng đều đặn như mọi khi.
Cảnh những hàng quán ở sân ga thật tàn tạ. Cái tấp nập "đèn sáng
cho đến nửa đêm" giờ chỉ còn là dĩ vãng. Hiện thực trước mắt thật
u buồn: những hàng cơm cửa đóng then cài, chìm nghỉm giữa bóng đêm dày nặng.
Liên kết những hình ảnh, chi tiết nói trên, chúng ta nhận ra chủ ý nghệ thuật
của Thạch Lam. Nhà văn không triết lý kiểu như Nam Cao mà để các hình thức nghệ
thuật tự "lên tiếng". Văn Thạch Lam nhẹ nhàng mà sâu sắc
là vì vậy.
Hình tượng con tàu ngoài ý nghĩa tả thực
còn mang ý nghĩa biểu trưng. Tính chất biểu trưng của nó được xác nhận qua
luồng ánh sáng rực rỡ. Trong cảm nhận của những tâm hồn thơ trẻ như Liên và An,
ánh sáng con tàu gợi về một thế giới khác "vui vẻ và huyên
náo" hơn. Nó đối lập với cái u buồn, thinh lặng của không gian
phố huyện. "Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một
thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và
ánh lửa của bác Siêu". Trên nền cảm nhận về sự đối lập của hai
thứ ánh sáng đó, tâm hồn Liên nảy sinh những khát khao về sự đổi thay cuộc
sống. Rõ ràng, những đứa trẻ như Liên, An đã mất đi cái hồn nhiên, trong trẻo
của tuổi thơ. Thay vào đó là nỗi buồn, là sự tự cố gắng để hy vọng vào một ngày
mai. Chuyện hai chị em cố thức để đợi tàu chính là vì cái lẽ ấy. Ta hiểu vì sao
khi con tàu vừa rời khỏi sân ga, Liên lập tức "lặng theo mơ
tưởng". Tâm hồn Liên đang tìm về với thế giới của ánh sáng rực rỡ
và âm thanh huyên náo. Khi viết câu văn "Liên lặng theo mơ
tưởng", Thạch Lam hình như cũng đang đau đáu về một sự đổi
thay!
Ý nghĩa nhan đề của truyện
VÌ SAO TÊN TRUYỆN NGẮN KHÔNG LÀ HAI CHỊ
EM?
Đọc toàn bộ văn bản truyện ngắn, duy nhất một lần, Thạch
Lam viết cụm danh từ hai đứa trẻ (ngoại trừ một lần khác, ông
gọi mấy đứa trẻ, nhưng để chỉ lũ trẻ nhặt rác ngoài sân chợ). Còn lại, ông
toàn dùng các cụm danh từ khác để gọi hai nhân vật chính của truyện: hai
chị em (14 lần); chị em Liên (03 lần); An và Liên (03
lần); Liên và em (01 lần)…
Nếu luận lí một cách thông
thường và nông nổi, căn cứ vào tần suất xuất hiện cụm từ hai chị em, diễn
biến cốt truyện, sự phát triển tính cách chủ đạo của nhân vật, lối xưng hô mọi
người dành cho Liên…, tên truyện ngắn phải là Hai chị em mới có vẻ
phù hợp và sát thực. Vậy vì sao Thạch Lam lại đặt tên truyện ngắn của mình
là Hai đứa trẻ? Lí giải điều này không dễ chút nào, nếu suy diễn và áp đặt
một cách vu vơ, thiếu căn cứ, hóa ra chúng ta làm hại Thạch Lam hơn là tôn vinh
ông! Nhưng đây là một hiện tượng đặc biệt, chắc chắn ám ảnh ít nhiều tín
hiệu nghệ thuật nào đó, nên cần tìm hiểu đôi chút, những mong sẽ khám phá được
điều gì?
Nhân vật An, đích thực
100% là đứa trẻ, thôi không bàn. Riêng nhân vật Liên, có thật là một
trong hai đứa trẻ không, cần thiết phải xem xét. Trước hết, ngay với
Thạch Lam, trong thẳm sâu cảm xúc nghệ thuật và ý tưởng sắp xếp câu chuyện,
nhân vật, tình tiết… dường như về mặt hình thức, ông coi Liên là một người
lớn đúng nghĩa. Bằng chứng là trong toàn bộ văn bản, ông đều gọi Liên hoặc
bằng tên hoặc bằng danh từ chị một cách trân trọng, nâng niu. Ở nhiều
tình tiết cốt truyện, Liên xuất hiện chững chạc và có chiều sâu của một người
lớn. Mở đầu tác phẩm, Liên không thể là một đứa trẻ khi không hiểu
sao… thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Chỉ có thể là
suy tư của một người lớn khi Liên mải ngồi nhìn phố quên mất lời mẹ
dặn đóng cửa hàng lúc có trống thu không, bởi mẹ đã coi Liên là người đáng
tin, giao cho Liên trông coi cửa hàng. Bản thân Liên cũng tỏ ra
chị là người con gái lớn và đảm đang. Cõitâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những
cảm giác mơ hồ không hiểu, trước đêm và thiên nhiên bí ẩn, hoàn toàn là tâm hồn
của một người lớn… Rồi lối xưng hô của mọi người với Liên cũng là lối xưng hô
với một người đồng đẳng: chị Tí gọi Liên bằng cô (như gọi em gái
chồng), cụ Thi gọi Liên bằng cô bé (như gọi một thiếu nữ thành niên)
hoặc em (như gọi một người em, tự xưng chị)… Nghĩa là, nói chung
mọi thứ liên quan đến nhân vật Liên trong truyện ngắn này, khiến độc giả có rất
ít khả năng cảm nhận nhân vật này như là một đứa trẻ, nếu chưa đọc đoạn
kết với tư cách đồng sáng tạo và không đọc đi đọc lại nhiều lần để tìm ra ý
tưởng sâu xa mà Thạch Lam gửi gắm ở đây cũng như nơi tên tác phẩm.
Rõ ràng, Thạch Lam có
dụng ý nghệ thuật khi đặt tên truyện là Hai đứa trẻ mà không phải là Hai chị em.
Thứ nhất, Hai chị em không khu biệt một cách rõ
rành độ tuổi vị thành niên của hai nhân vật chính như Hai đứa trẻ
- điều mà Thạch Lam muốn đụng đến và gửi gắm ý tưởng sâu xa vào
đây. Dù tác giả vẫn chỉ gọi nhân vật Liên như một người lớn nhưng trong
thẳm sâu trái tim ông, ông luôn muốn Liên vẫn mãi là một đứa trẻ.
Vì sao vậy? Bởi vì, chỉ có
thể là đứa trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) với tâm hồn trong trắng,
giàu khát khao vươn tới những gì mới mẻ, sáng sủa mới có thể tương phản hoàn
toàn với thế giới cũ mòn, già nua, tối tăm nơi phố chợ về đêm ấy. Chỉ có thể là đứa
trẻ thì nhân vật Liên (cùng An) mới có thể tạo ra sự thương xót, cảm thông
sâu sắc nơi tác giả cũng như từ độc giả về cảnh sống thanh bình một cách cực
nhọc, yên hàn một cách buồn bã và quẩn quanh, lặng lẽ của một lớp tuổi thơ nông
thôn thời ấy. Cho nên, ở đoạn sau của truyện ngắn, thực ra việc chờ đoàn tàu có
lẽ chủ yếu chỉ dành cho nhân vật An thì cuối cùng, tác giả cũng phải đưa cả
nhân vật Liên vào bằng một hành động mạnh mẽ: Liên dắt em đứng dậy để nhìn
đoàn xe vụt qua. Có thể nói, đây là bóng dáng đứa trẻ ấn tượng nhất
của nhân vật Liên mà Thạch Lam dựng nên trong tác phẩm này. Nhân đây, một
lần nữa, ta nhận ra qui luật vĩnh cửu của tâm hồn con người: trong một người
lớn bao giờ cũng có một đứa trẻ tồn tại với những ước mơ hồn
nhiên, trong sáng, thiêng liêng. Và cái ranh giới người lớn - đứa
trẻ thường khi rất mong manh, khó phân định, nhất là ở độ tuổi vị thành
niên, dậy thì…
Có thể thấy rõ
tài dụng quân của Thạch Lam ở truyện ngắn này qua mấy điều ghi ra ở
trên. Cả tác phẩm, hai nhân vật chính hầu hết được gọi là hai chị em, chị
em Liên, An và Liên, Liên và em… nhưng tên truyện ngắn phải cứ là Hai đứa
trẻ. Bởi vì, ở đây tác giả không chủ ý nêu cao chủ đề tình cảm con người (tình
cảm chị em) mà là tập trung vào ý tưởng mô tả chân dung thời cuộc (đời sống
thấm đẫm màu sắc bi kịch của con người, nhất là lớp trẻ thơ). Lí luận văn học
một thời gọi tên tác phẩm chính là chủ đề, đại ý hay gợi ý của toàn tác phẩm là
vậy!
Thứ hai, kết thúc tác phẩm là giấc ngủ của Liên "trong
tĩnh mịch và đầy bóng tối”giữa cuộc đời chật hẹp như chiếc đèn của chị Ty chỉ
đủ "chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ, in hằn
lên nếp sống, nếp nghĩ của trẻ thơ. Cái nhìn của Thạch Lam thật tinh tường! Tấm
lòng của Thạch Lam thật bao dung! Tác phẩm vang lên lời kêu cứu. Vâng, hãy cứu
tâm hồn nhỏ dại của trẻ thơ khi chưa quá muộn. Đến giờ tiếng kêu khẩn thiết cất
lên từ những năm 30 ấy vẫn còn nguyên giá trị.
Vậy là giá trị nội dung
của Hai đứa trẻ thật lớn lao và đặc sắc. Cái hay là ý nghĩa xã hội và
tư tưởng cao sâu, độc đáo ấy lại được gửi gắm trong một câu truyện đơn giản tới
mức có thể nói là không có gì đặc biệt. Đó là những câu chuyện sinh hoạt thường
ngày của những người lao động lam lũ xoay quanh quầy hàng tạp hóa của chị em
Liên vào một buổi chiều tối tại một phố huyện nơi có tuyến đường sắt từ
Hà Nội đi qua. Đúng vậy, rất đơn giản, tưởng như không có gì đáng nói, đáng
nhớ. Thế nhưng tài năng nghệ thuật dường như bắt đầu từ đấy. "Anh có một
biệt tài quý giá là tìm được ngọc trai trong bất kì rãnh nước nào”- một nhà thơ
nói về văn hào Anđécxen như vậy. Cái khó ở đây là phải phát hiện ra những điều
ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa. Không lấy làm lạ khi nhà văn đưa ta tới một vùng
quê vắng lặng vào một buổi chiều tàn dần chuyển sang đêm ngập tràn bóng tối.
Dựng cảnh, người viết dụng tâm đặc tả hai phương diện này: sự buồn tẻ của
âm thanh và sự tăm tối của không gian. Thật ra không phải không có tiếng
động và ánh sáng. Có điều, cùng với sự vận hành của thời gian, cảnh tượng cứ
nhạt dần, cứ vắng dần. Không có thì tương lai, tồn tại trong các tác phẩm chủ
yếu là thì hiện tại và một phần là quá khứ... Sự tương phản giữa trước và nay,
giữa chiều và đêm thật rõ. Trước kia, phố chợ đông vui, sáng sủa hơn nhiều:
"Ở sau ga, có mấy hàng cơm mở cửa đón khách, đèn sáng cho đến nửa
đêm". Còn giờ đây? "Họ đóng cửa cả rồi... Im lặng và tối đen như
ngoài phố". Đặc biệt là thực tại trong tâm tưởng của Liên. Kí ức với cô là
Hà Nội "sáng rực vui vẻ và huyên náo". Hiện tại với cô là "đêm
của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và im lặng". Đáng buồn
thay, con người hướng về không phải là ngày mai mà là quá vãng của ngày
hôm qua để mơ tưởng và tiếc nuối. Hôm nay khác biệt với hôm trước, hôm trước
nữa theo chiều suy giảm. Vẻ đông vui, nhộn nhịp, sáng sủa, tươi tắn... tồn tại
ở phía sau. Một quá khứ vàng son! Mà đâu cần nhìn xa, giữa chiều và đêm cũng
khác nhau nhiều lắm. Lúc chập tối "các nhà đã lên đèn rồi, đèn treo trong
nhà bác phó My...”để chưa đến 9 giờ "tất cả phố sá trong huyện đều thu nhỏ
lại nơi hàng nước của chị Ty". Cuộc đời cứ thế mòn mỏi dần theo năm tháng.
Người ta chỉ còn biết đọc truyện cổ tích để tiếc nuối quá khứ và lãng quên hiện
tại.
Nhìn nghe cho kĩ thì trong
thời khắc hiện tại không phải hoàn toàn im ắng và tối tăm. Có tiếng ếch kêu
văng vẳng theo gió từ ngoài đồng thổi vào; có tiếng cười khanh khách điên khùng
của bà cụ Thi; có tiếng đàn bầu của bác Sẩm bần bật trong yên lặng... Đặc biệt
tiếng đoàn tàu "sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”rầm rập đi tới rồi
lại rầm rập qua nhanh như "đã đem một chút thế giới khác đi qua". Đó
là âm thanh, còn ánh sáng? Có ngọn đèn lay động trên chõng của chị Ty; chấm lửa
nhỏ và vàng lơ lửng mất đi rồi lại hiện ra của gánh phở bác Siêu đi trong đêm
tối; và còn ngọn đèn vặn nhỏ như hạt đậu thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên
nứa của Liên nữa. Và nếu cần kể thêm thì phải kể tới những vệt sáng của những
con đom đóm "bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây". Chấp chới
và mơ hồ quá! Có sáng chăng là vẻ lấp lánh của hàng ngàn ngôi sao trên bầu
trời. Ánh sáng nơi trời cao, xa xăm và cách biệt. Giá chỉ một màn đêm đen tối,
một không gian hoàn toàn tĩnh lặng có lẽ sẽ hơn chăng? Nhưng đó lại là cuộc
sống mà tuổi thơ của những Liên, của những An phải cam chịu, phải chấp nhận.
Sinh động mà bi đát, khắc khoải làm sao! Gấp truyện ngắn lại, tôi còn như trông
thấy bé An từ trong gian hàng nóng nực và đầy muỗi đi ra. Thế rồi An ngồi xuống
chiếc chõng tre, "chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két". Cuộc
sống sớm dấn thân vào những lo toan vật chất thường ngày đã tác động tới tâm
hồn trẻ thơ từ nhiều phía và làm cho chúng trở nên cằn cỗi, trở nên vị kỉ - trẻ
thơ không còn là trẻ thơ nữa. Mà qui luật của cuộc đời lại vốn ngặt nghèo: hoa
không mọc thì cỏ dại sẽ tươi tốt. Liệu chúng ta có thể dửng dưng?
Đề : Ý nghĩa của chuyến tàu đêm
với cư dân ở phố huyện , đặc biệt đối với chị em Liên trong
truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam
1.Một phố Huyện nghèo và cuộc sống cơ cực của cư dân ở
một phố huyện nghèo là cơ sở làm nảy sinh khao khát của chị em Liên chờ đợi một
chuyến tàu đêm :Những
đứa trẻ em nghèo kiếm sống bằng cách nhặt nhạnh tất cả những gì có thể nhặt
nhạnh dược ở chợ chiều , những kẻ kiếm sống bằng nghề hát rong sống lang thang
, lây lất giữa phố chợ ( gia đình bác Xẩm ) , những con người nghèo khó ,
vất vả , lao động cực nhọc nhưng chẳng thấm vào đâu ( mẹ con chị Tí , ngày mò
cua bắt ốc , đêm về , phải thức khuya bán thêm bát nước kiếm thêm tiền ), bác
Siêu bán phở , xem ra phố Huyện không phải là dễ kiếm sống (thứ quà xa xỉ
phẩm - tối đẩy xe đi , khuya đẩy xe về ), Gia đình bác Xẩm hát khản cổ
họng và chẳng mấy ai cho tiền , vắng khách đến mức phải ngủ quên trên manh
chiếu ) . . . Chừng ấy con người sống trong bóng tối , lẫn với bóng đêm , hoạt
động theo nề nếp quen thuộc , có phần máy móc . Những kiếp người ấy sống
hết sức phẳng lặng . Dưới ngoì bút của Thạch Lam dường như họ an phận
, sống hắt hiu nhưng bình tỉnh và nhẫn nại và chỉ mong đợi le lói một cái gì
tươi sáng cho sự sống của họ , cho nên họ đã khắc khoải chờ đợi một chuyến
tàu đêm , dù họ biết rõ chuyến tàu ấy chẳng đem lại lợi lộc bao nhiêu ( Chị em
liên khá lắm cũng chỉ bán thêm bao thuốc , bánh xà phòng. . .Chị Tí bán thêm
vài bát nước ). Cuộc sống của cư đân nghèo ở một phố huyện thật đơn điệu
, nghèo nàn, sa sút , bế tắt , không tương lai .
2.Chính cuộc sống tăm tối, đơn điệu, nhàm chán, nhạt
nhẽo và vô nghĩa, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải của Liên đợi chuyến
tàu đêm :
a.Tâm trạng buồn chán của Liên đã dẫn đến khát vọng
muồn thoát ra khỏi cuộc sống mà cô đang phải sống (ngày nào cũng như
ngày nào : sáng dậy mở cửa dọn hàng , bán hàng ; chiều tối
lại kiểm tiền , thu hàng - những món hàng cũng không đổi : một bao diêm , một
cuộn chỉ , mấy bánh xà phòng... thật đơn điệu , tẻ ngắt) , dù chỉ để hi vọng vu
vơ về một thế giới khác: "Liên lặng theo mơ tưởng , hà Nội xa xăm
, hà nội sáng rực vui vẻ và huyên náo .Con tàu như đã đem đến một chút thế giới
khác đi qua . Một thế giới khác hẳn đối với Liên , khác hẳn với cái vầng
sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu .Đêm tối vẫn bao bọc
chung quanh , đêm của đất quê , và ngoài kia , đồng ruộng mênh mông và yên
lặng" , khác với cuộc sống ngưng đọng và tàn lụi này dù chỉ trong phút
chốc, chỉ thoáng qua trong khoảnh khắc nhưng ít nhất không có nó , thì
cuộc sống kia cũng sẽ trở thành vô nghĩa .
b.Chờ đợi một chuyến tàu đêm ,thực chất là sự giải toả
về mặt tâm hồn : Khao khát thoát ra khỏi cuộc đời tăm tối ,khao khát được sống
một cuộc sống có ý nghĩa hơn .Đợi tàu là một nhu cầu bức thiết về tinh thần của
Liên , vì chuyến tàu là hình ảnh của một thế giới khác đi qua cuộc đời Liên ,
một thế giới giàu sang , nhộn nhịp, huyên náo và đầy ánh sáng :" Liên dắt
em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua , các toa đèn sáng trưng , chiếu
ánh cả xuống đường . Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng
và lố nhố những người , đồng và kền lấp lánh , và các cửa kính sáng " .
Trong cả một ngày dài buồn tẻ , đây là những giây phút bừng sáng và
hạnh phúc nhất của cô , dù chỉ sống trong ước mơ , tưởng tượng . Đoàn tàu đã đi
qua nhưng tâm hồn Liên vẫn cuốn hút theo mãi cho đến khi cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh treo trên toa sau cùng , xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre . Đến lúc ấy
Liên như sống trong mơ tưởng , trong sự tiếc nuối một chút gì dã qua nhưng dư
vang của nó thì vẫn đọng lại trong tâm hồn rõ rệt . Và thật tội nghiệp , dư âm
đó vẫn còn sót lại trong giấc ngủ chập chờn : "Thế giới quanh mình
mờ mờ đi trong mắt chị . Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi...Nhưng
Liên không nghĩ được lâu , mắt chị nặng dần , rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ
yên tỉnh ."
3 Khắc họa thành công tâm trạng đợi tàu của cô bé Liên
, Thạch Lam muốn nói với người đọc nhiều điều sâu sắc ( giá trị nhân đạo )
:Cuộc sống buồn tẻ , đáng thương
của những đứa trẻ , suy rộng ra là những kiếp nhười nhỏ bé , vô danh , không
bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc , cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong
tăm tối , nghèo đói, buồn chán . Những cuộc đời thật đáng thương nhưng lại có
những ước mơ thật bé nhỏ , tội nghiệp mà chân thành , tha thiết và cảm động,
rất đáng trân trọng như ước mơ đợi chuyến tàu đêm của cô bé Liên . Ứơc mơ của
Liên đã lay động những tâm hồn uể oải , đang lụi tắt và nhóm lên trong lòng họ
ngọn lửa của lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn . Chừng nào
con người còn có ước mơ, hi vọng chừng đó con người mới có thể gọi là sống
.
4 .Đoạn nhân vật Liên chờ đợi chuyến tàu đêm là đoạn
thành công của Thạch Lam trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng :
Nhà thơ đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với
những cảm xúc , cảm giác mơ hồ mong manh" Liên lặng theo mơ tưởng . Hà Nội
xa xăm , Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo , Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua " .Nội tâm của nhân vật không phải diễn
biến phức tạp hoặc dữ dội mà rất nhẹ nhàng , lặng le õ, tinh tế : " Liên
nhìn quanh đêm tối. . .những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn
Liên và hình ảnh thế giới quanh mình , mờ đi trong mắt chị , Liên thấy mình
sống giữa bao sự xa xôi ..."
ĐỀ VĂN ÔN TẬP
Đề 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người nơi
phố huyện nghèo lúc chiều tối trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch
Lam.
Đề 2: Phân tích tâm trạng đợi tàu của chị em Liên
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
HƯỚNG DẪN LÀM
BÀI VÀ BÀI LÀM
THAM KHẢO
Đề 1.
A. LẬP
DÀN Ý:
1. Giới thiệu khái quát về Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ” cùng
yêu cầu của đề. (Mở bài) (1.0 điểm)
2. Phân tích hình ảnh thiên nhiên.(3.0 điểm)
a.
Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên: (hình ảnh thiên nhiên)
+ Màu sắc.
+ Âm thanh.
+ Mùi vị.
à Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật à Gợi hồn quê.
b.
Nghệ thuật mô tả của tác giả:
-
Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm
nhận của mình mà qua cảm nhận và quan sát của Liên.
-
Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối.
-
Cảnh vật có một sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị.
-
Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca.
c.
Vai trò của bức tranh thiên nhiên:
-
Làm nền để trên đó khắc hoạ những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ, bế tắc, quẩn
quanh và không ánh sáng.
-
Tạo ra cho tác phẩm nét trữ tình riêng biệt trong lối hành văn của nhà văn
Thạch Lam và cũng tạo ra cho câu truyện một bối cảnh không gian mang đặc trưng
của phố huyện nghèo rất chân thật.
-
Gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật.
3. Hình ảnh con người.(3.0 điểm)
a.
Những biểu hiện của con người trong tác phẩm:
-Trong
cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác
xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên.
b.
Đặc điểm chung của các mảnh đời:
-
Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt.
à Tất cả đều buồn bã, ít hi vọng vào lối sống có tính
cầu may nhưng họ đều mong đời có một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện
tại nhưng thật mỏng manh, mơ hồ vì đó chỉ là một chuyến tàu.
c.
Nghệ thuật:
-
Tạo ra được sự tương đồng giữa cảnh vật và con người.
-
Dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ có vẻ ngẫu nhiên nhưng đều gợi tâm trạng
buồn chán, thất vọng.
-
Các nhân vật được xây dựng trong sự đối lập: giữa cái dày đặc mênh mông của
bóng tối với những luồng sáng, giữa quá khứ hạnh phúc và thực tại phũ phàng,…
rất gợi trạng thái tâm trạng của con người.
4. Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ cảnh vật và con người. (2 điểm)
-
Sự đồng cảm, thái độ trân trọng, nâng niu trước niềm tin và hi vọng dù có mơ hồ
về tương lai tươi sáng hơn.
-
Qua cảnh vật, thiên nhiên và con người, nhà văn gửi vào đó niềm ước mong một sự
đổi thay sẽ đến với những mảnh đời tội nghiệp nơi phố huyện
à Đây cũng là chiều sâu nhân đạo của tác phẩm “Hai đứa
trẻ”.
5. Kết luận: Đánh giá và cảm nghĩ.(1.0 điểm)
B. BÀI
LÀM THAM KHẢO.
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn
Đoàn với lối viết mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những
truyện ngắn vừa mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu
sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian
cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cho đến nay
có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được thử thách của
thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó.Ở
đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà
chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và
con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối
được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang
gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của
Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên
phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực”
như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”.
Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là
một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng
ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố
huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên
trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà
vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi
riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa
thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình
khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố
huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng
tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua
chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông
dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt”
của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những
“hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật
gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới
lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội
đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi,
thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà
văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo
của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh
sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần
làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là
lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút
người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện nghèo lúc chiều tối. Nó không
những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ở họ những tình
cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều
trở nên thật gợi cảm biết bao.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật
nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa
hơn, nó còn gián tiếp giúp người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến,
trạng thái tâm trạng của các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói
cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm
hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh vật. Ở đó có một cái gì đó thật
nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh vật và nỗi buồn trong tâm
hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm một chất thơ, chất trữ
tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt
hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam
lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng
điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ
tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre
giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên
“động lòng thương” nhưng không có tiền để cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối,
khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo
nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ
chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng
tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”.
Đêm xuống, phố
huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất
đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng
sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh
đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không
có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy
là chị em Liên. Cha của hai em mất việc phải rời Hà Nội
về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp
hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của
Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện
tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều
tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng.
Để lại trong
lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương,
dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện.
Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác,
quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính
cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn
tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời
ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn
hiện thực Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét
chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân
vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít
hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng
về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó,
nhà văn cũng rất thành công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa
mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp
của phố huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm
thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và
con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi
tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của
nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước
cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa
của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn
họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật,
tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng
bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình
thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương
thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi
người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn.
Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần
được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố
huyện lúc chiều tối không có nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói
năng. Nhưng với lối viết giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong sáng
Thạch Lam đã gợi được tinh tế những không khí của câu truyện, những cảnh sinh
hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn con người khiến cho bức tranh đời sống của
phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một mảng sáng
lung linh ấm áp trong tâm hồn người lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái của
Thạch Lam.
***************************
ĐỀ 2.
A.
LẬP DÀN Ý:
1.
Giới thiệu khái quát về Thạch Lam, tác phẩm “Hai đứa trẻ” dẫn dắt vào yêu cầu
của đề. (Mở bài + Ý 1 thân bài) (1.5 điểm)
2.
Nêu hoàn cảnh và lí do thức đợi tàu của hai chị em Liên. (2.0 điểm)
3.
Diễn biến tâm trạng của chị em Liên. (2.5 điểm)
4.
Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ đó nói về nghệ thuật biểu hiện tâm trạng. (2.0
điểm)
+ Ý nghĩa.
+ Nghệ thuật.
5.
Kết luận: đánh giá và cảm nghĩ. (1.0 điểm)
B.
BÀI LÀM THAM KHẢO.
Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc
biệt được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối
mòn đó, truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ
là một chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên
được tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên. Ngày lại ngày khi đêm về khuya,
chuyến tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải
thao thức và nhẫn lại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi
vọng.
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu
biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời
sống của tầng lớp người nghèo ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những
truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” ta dễ dàng nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực
nhạy cảm và nhân hậu. Ở đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh
mơ hồ trong thế giới nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví
như “một bài thơ trữ tình đượm buồn”.
Câu truyện được bắt đầu với những xao
động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe tiếng trống thu không gọi chiều về trên
phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”.
Đêm tối như ôm trùm lên tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà
văn điểm vào đó những “hột sáng”, “quầng sáng” leo
lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi trong đêm… Nổi bật lên giữa thế
giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là
cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh
hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai chị em Liên và An với
gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay
lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi lặp lại thật đơn điệu và buồn chán.
Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch .
Nhưng con người tự muôn đời nay luôn
luôn sống trong khao khát và hi vọng những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng
như chừng ấy người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn
cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên
đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua
nhưng đã mang đến cho họ một thế giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và
ánh lửa trong gian hàng bác Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể
bán thêm một ít hàng bởi “họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó
mà Liên “dù buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp
sửa rơi xuống vẫn không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.
Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà
văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ theo
trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã về
khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang
lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi,
An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại
trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh mông giống như một ánh sao băng lấp lánh
bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt, mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới
nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến
tàu đêm nay không đông và kém sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà
Nội xa xăm, Hà Nội
sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua. Một
thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà
Nội trong kí ức tuổi thơ, Hà Nội
của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng về dù chỉ
trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”.
Phải chăng những kỉ niệm tươi sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi
thơ giống như một chiếc gối êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ
phàng hay ảm đạm. Xa Hà Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những
lần “đi chơi bờ hồ được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon
lạ”. Họ nhớ như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi
phở của bác Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không
bao giờ mua được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm
của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại
trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn
cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi,
đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”.
Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ
mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống mòn
mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa
xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của cô bé
Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui sướng
khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ
thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn tẻ, chuyến
tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới
khác đi qua phố huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre”
mà Liên vẫn cứ “lặng theo mơ tưởng”.
Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay đổi cuộc sống của hiện
tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được trở lại cuộc sống tươi
sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà
Nội . Trong ý nghĩ hồn nhiên, non
nớt và tội nghiệp của Liên, Hà
Nội là một thiên đường ở trong mơ.
Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong
lòng Liên cứ rộn lên những bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào
cõi mơ tưởng. Liên nghĩ về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi
thơ tươi sáng qua lâu rồi, tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy
bóng tối. Những trạng thái tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm
hồn nhạy cảm cùng với một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện
và thể hiện được. Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội
về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp
như một giấc mơ trong truyện cổ tích thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên
rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó
vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại
để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau
một ngày dài đầy buồn tẻ.
Không một chi tiết éo le, truyện hai
đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp, khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị
em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không, thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện
nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An.
Tàu đến rồi”là tình cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con
người nhỏ bé, tội nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong
xã hội cũ trước cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và
ước mơ, hi vọng của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội
về vụt qua trong giây lát. Trang sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi
tàu của chị em Liên cứ ám ảnh, cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ
Thạch Lam: có những cuộc đời mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng
thật cảm động và đáng trân trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm
than trong hiện thực để ước mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc
sống có chút ánh sáng trong tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố
thức đợi tàu là những nỗ lực vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại.
Niềm tin và ước vọng ấy tuy mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai
đứa trẻ. Qua đó, ta nhận ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế giới tăm tối
này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống hạnh phúc.
Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em cậu bé Vinh
(tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện nghèo nay đã
lùi sâu vào dĩ vãng của ông.
Là một truyện ngắn không có cốt
truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới nội tâm của hai đứa trẻ, đó là
những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm
nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết văn mềm mại, trong sáng, giàu hình
ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm
kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng
đủ để ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của
chờ đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh
chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng
đã mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một
cái gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự”
của bài thơ trữ tình đượm buồn này.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác
như được đọc một “bài thơ trữ tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai
chị em Liên ta rất dễ nhận ra một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng
thấm thía vô cùng trong lòng người đọc.
Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa
trẻ" (Thạch Lam)
ĐỀ BÀI:
Sách văn 11 , năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam:" Mỗi truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương ( trang 148 ).
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Sách văn 11 , năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam:" Mỗi truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương ( trang 148 ).
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Dàn ý:
a. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn
Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi
đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp
người có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức
truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức
cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với
nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn
hút ấy chính là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
- Truyện ngắn
"Hai đứa trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn
giàu chất thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và
chất thơ trong truyện ngắn:
- "Chất
thơ": Tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ
đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể
khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
- Chất thơ trong
truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách
tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình
trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong
sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.
- Một truyện ngắn
(hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người
viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm
bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong
truyện ngắn "Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của
cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
- ở nhân vật Liên có
vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như chưa
từng chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động
tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên đã
khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố
huyện đã lay động tâm hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê
và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm
xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh để mơ mộng về con
vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm
hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ
nhất của thế giới quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột
sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá
khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh không
thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt
hàng ngày lại khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại
không nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ
nhất "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Chính nỗi
nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của
chuyến tàu đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa bao
nhiêu sự xa xôi không biết" mà chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối
với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống nghèo
khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua
song không vì thế mà Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh
mình. Nhìn những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên
thấy "động lòng thương" tuy chính chị cũng không có gì để cho chúng.
Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi
điên dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ
khi phải đối diện với một người không hoàn toàn bình thường. Chính những tình
cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như được "thanh
lọc tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
- ở cái tôi Thạch
Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa
tre" bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc
truyện, không thể không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân
vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn nhân hậu, yêu thương mà
người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân
vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng
của những cảm xúc này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện
giữa chất thực và chất thơ để tạo thành một sức hút da diết, bền lâu của tác
phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của
hình thức nghệ thuật:
- Trong truyện,
Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại
vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của
Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm,
tiềm tàng ở mọi vật bình thường".
+ Không gian được
lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và
thôn quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn
tính chất phố.
+ Trong không gian
êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều
chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây
"ánh hồng như hòn than sắp tàn", tiếng trống thu không "vang xa
để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió
mát", vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những
con đom đóm "bay là là trên mặt đât hay len vào những cành cây", bóng
bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào
hai bên ngõ"…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng
quen thuộc, bình dị mà ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch
Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một khái niệm mà như một trạng thái của sự
sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn
con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ
quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người
về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá
nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi
quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này". Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác
ấu thơ của rất nhiều người Việt.
- Truyện có những
chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm
xúc, cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên
ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần
bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao để mà thấy chúng như thuộc về vũ
trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến tàu đêm…
Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm
của chất thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực
tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi,
ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc ngủ song dư
âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để
"gióng lên cái gì đó còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). ánh sáng của
đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của khát vọng da diết
trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh
sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
- Mạch truyện của
"Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của
Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những
tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn
của chính mình". Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt
lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm, rung động của tâm hồn
con người.
+ Truyện "Hai
đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của
những tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để
làm được điều này, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một
cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái có tâm hồn thuần
khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự đan
xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường
như, cái nổi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình
tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong thực tại
- hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch Lam
có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác
nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn
trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài
niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm giác xa xôi không
biết…
- Để thể hiện thành
công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình
đặc sắc trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác
và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm
nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng
những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần
nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu
văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan
toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố
huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả như ru, văng
vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…" Hay
miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc
xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng
tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống
khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát,
dịu hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên
tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này liên kết với nhau như một
dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch
Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo
nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén
ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn
dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo".
Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc
tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ
lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua".
Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm
tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ nén của cảm
xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn
"Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện
đều chan chứa chất thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị,
thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình
yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở
thiện căn của con người…
- Với những gì được
khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện "Hai đứa
trẻ" tựa như một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý
nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành
và mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là
cốt cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng
độc giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét