Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

Ôn Thi THPT Quốc Gia môn văn dạng bài So sánh - Tác Giả NCS : Nguyễn Minh Thu

Để  chuẩn bị cho kì thi THPT Quốc gia tới cô đem đến cho các  bạn món quà về các bài văn về so sánh:

 Cảm nhận của anh, chị về hai đoạn thơ sau:
- Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập một, NXB GD)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
( Đất Nước- Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD 2008)
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả Xuân Diệu, Nguyễn Khoa Điềm; về hai bài thơ Vội vàng, Đất Nước và hai đoạn thơ được yêu cầu cảm nhận.
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ :
a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
- Đoạn thơ thể hiện một “cái tôi” ham sống cảm nhận được cái hữu hạn của cuộc đời nên muốn tận hưởng hêt những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống.
- Các yếu tố nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh.. góp phần thể hiện cái hối hả, gấp gáp, cuống quýt của tâm trạng, khiến nhịp điệu đoạn thơ sôi nổi, cuồng nhiệt.
b. Đoạn thơ trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
- Ý khái quát của đoạn thơ: Đất nước là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi người là gìn giữ và bảo vệ đất nước cho muôn đời.
- Biểu hiện cụ thể:
+ Cảm nhận mới mẻ về đất nước:
• Đất nước gần gũi thân thiết ở ngay trong mỗi con người chúng ta
• Đất nước là sự thống nhất hài hoà giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng. Đất nước là kết tinh của tinh thần đoàn kết dân tộc và tình yêu thương.
• Niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.
+ Trách nhiệm với đất nước.
- Đoạn thơ kết hợp hài hoà giữa chất trữ tình và chính luận, giọng thơ tha thiết, ngọt ngào; ngôn từ hình ảnh đẹp, cách sử dụng các kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng...
3. Đánh giá chung:
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ quan niệm sống tích cực, tiến bộ; có sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí. Đều sử dụng thể thơ tự do.
- Điểm khác biệt:
+ Đoạn thơ trong bài Vội vàng: Quan niệm sống vội vàng, gấp gáp để tận hưởng những phút giây tươi đẹp của tuổi xuân. Giọng thơ sôi nổi, cuồng nhiệt..
+ Đoạn thơ trong bài Đất Nước: Thể hiện mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng; từ đó nêu cao trách nhiệm của mỗi người đối với nhân dân và đất nước. Giọng thơ tha thiết, ngọt ngào và đậm chất suy tư.
Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân đều viết về tình cảnh người nông dân trước Cách mạng
MB
Giới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
Khám phá riêng của mỗi tác giả.
TB:
1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :
-Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ, không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đầy vào tù.
Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình, bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.
Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhăt
-Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )
-Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.. Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự nghèo đói và thê thảm.
3. Kết thúc của hai tác phẩm
a. Khác nhau
-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.
-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.
Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN đương thời. Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.
Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.
Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.
4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
a. Của “Chí Phèo”
- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.
- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.
Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với “Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.
b. Của “Vợ nhặt”
- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như nằm bên bờ vực thẳm của cái chết.
- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.
- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ về sự sống.
Chi tiết kết thúc truyện Chí Phèo và Vợ nhặt
Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực xuất sắc, một bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn; sáng tác mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Chí Phèo là đỉnh cao trong sự nghiệp của Nam Cao; truyện có kết thúc độc đáo, tô đậm được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh. Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân; kết thúc truyện đặc sắc, khắc sâu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Chí Phèo
- Ý nghĩa nội dung :
+ “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân.
+ Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
- Ý nghĩa nghệ thuật :
+ Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
+ Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt
- Ý nghĩa nội dung :
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai
đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
- Ý nghĩa nghệ thuật :
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.
Về sự tương đồng và khác biệt của hai kết thúc truyện
- Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.
- Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.
Cháo hành trong Chí Phèo, cháo cám trong Vợ nhặt.
1. Phân tích hình tượng bát cháo hành:
- Tái hiện chi tiết:
- Ý nghĩa chi tiết:
+ Nội dung:
• Thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư, không vụ lợi của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
• Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
• Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí -> gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Sau khi ăn bát cháo hành, Chí đã ước ao tha thiết được trở về với cuộc đời lương thiện. -> Bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:
. Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình.
. Khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.
• Nhưng bị cự tuyêt -> Bát cháo hành làm CP thêm đau khổ, tuyệt vọng.
+ Nghệ thuật:
• Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
• Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tửơng vào khả năng cảm hoá của tình người.
2. Phân tích chi tiết bát cháo cám:
- Tái hiện:
- Ý nghĩa:
+ Nội dung:
• Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy” số phận nghèo khổ, rẻ mạt của ndan trong nạn đói.
• Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
. Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực -> mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình.
. Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
• Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người , niềm tin và hy vọng.
. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị.
. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí gđ vui vẻ hơn.
. Thị là ng con dâu ý tứ, không muốn để mẹ chồng buồn, mất không khí gđ đầm ấm (chi tiết "thị điềm nhiên và vào miệng)
+ Nghệ thuật:
Thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. Tương đồng và khác biệt:
a,Giống:
- Nội dung:
+Đều là biểu hiện của tình người.
+ Đều thể hiện được bi kịch của nhân vật, hiện thực xã hôi:
• Bát cháo hành: bi kịch bị tha hoá + bị cự tuyệt quyền làm người-> thể hiện rõ hơn bi kịch bị cự tuyệt của xã hội đối vs Chí Phèo, bi kịch muốn hoàn lương nhưng không đc...
• Nồi cháo cám: thể hiện rõ hiện thực tàn khốc của nạn đói : cám vốn là thức ăn của con vật
- Nghệ thuật:
Đêù thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của 2 nhà văn.
b, Khác:
- Ndung:
+Cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo -> thể hiện rõ định kiến xã hội không chấp nhận Chí -> xã hội vô nhân đạo.
Cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của ng dân lao động trong nan đói.
+Cháo hành: thể hiện cái nhìn bế tắc của Nam Cao đối vs ng nông dân (Chí Phèo bị cự tuyêt và phải chết + xã hội không có tình người) cảm quan hiện thực của 1 nhà văn trước CMT8.
Cám: niềm tin vào khả năng cách mạng của người dân của Kim Lân (sau bát cám thị nhắc đến đoàn người đói, Việt Minh,… -> thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng) -> cảm quan nhà văn sau CMT8.
Chi tiết “bát cháo hành” trong Chí Phèo -Nam Cao
Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930 -1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm của mình đối với những con người nghèo khổ – những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng. Tác phẩm Chí Phèo – đứa con sinh sau đẻ muộn nhưng không chịu thua kém “anh chị” mình vươn mình lên hàng kiệt tác – đỉnh cao của văn học 1930 – 1945. Chí Phèo có được vị trí ấy là bởi giá trị tư tưởng mới mẻ, độc đáo, bởi nghệ thuật viết truyện lôi cuốn, hấp dẫn của ngòi bút Nam Cao. Và một điều không thể không kể đến đó là bởi Nam Cao đã xây dựng thành công những chi tiết nghệ thuật độc đáo: bát cháo hành của Thị Nở.
Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Chí Phèo sau khi uống rượu nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở – người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên ở bờ sông. Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu chuối “giãy đành đạch như hứng tình”, cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình Chí Phèo – Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
Bát cháo hành – biểu tượng của tình người ấm nóng duy nhất còn sót lại nơi làng Vũ Đại khô khát yêu thương. Bát cháo hành có lẽ đối với mỗi người nó chỉ là những thứ vặt vãnh, vụn vặt, nhất là khi cháo lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở. Cháo ấy có ngon không? Chúng ta không biết, chỉ biết một điều nó chan chứa tình người. Một tình người rất thật, rất hồn nhiên, vô tư, không vụ lợi mà Thị Nở dành cho Chí. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghĩ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.
Bát cháo hành – vị thuốc giải cảm cho Chí. Sau khi bị thổ, lần đầu tiên Chí tỉnh, lần đầu tiên cảm nhận được cuộc sống, nghe thấy được những âm thanh xung quanh: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, “tiếng những người đi chợ trò chuyện… Một ước mơ xa xăm của một thời nào Chí thấy như xa lắm. Hắn đã từng mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ vốn nuôi một con lợn. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Trận ốm đã làm cho hắn thoát khỏi cơn say triền miên mà nhận thức được mình, thấy mình đang ở cái dốc bên kia của cuộc đời, biết sợ tuổi già, ốm rét và cô độc. Trận ốm đã làm cho hắn biết sợ – cái mà có lẽ trước giờ chưa bao giờ hắn nghĩ tới. Thị Nở sang cùng bát cháo hành đưa cho hắn. Nhận bát cháo từ tay Thị mà hắn “ngạc nhiên”. Ngạc nhiên cũng đúng thôi vì “từ trước đến giờ đã ai cho hắn cái gì. Muốn cái gì hắn phải dọa nạt hay cướp giật”. Một cảm xúc khác thay cho cái ngạc nhiên ban đầu “hắn thấy mắt ươn ướt, một chút gì như là ăn năn”. Chí ăn năn về những gì mình đã gây ra, có thể là như lời nhà văn “người ta thường ăn năn về những việc mình làm khi người ta không ác được nữa” nhưng dẫu sao điều ấy là không muộn. Chí ăn cháo hành và thấy “cháo hành ăn rất ngon”. Tình người đầu tiên Chí nhận được sao không ngon cho được. Sự chăm sóc đầy ân tình dẫu chăng còn thô vụng của Thị Nở nhưng vẫn đáng quý biết bao. Còn gì quí giá hơn khi người ta ốm còng queo một mình mà lại được một bàn tay chăm sóc. Chí đã khao khát biết bao một bàn tay chăm sóc như thế. Bát cháo hành – sự chăm sóc, quan tâm vô tư của Thị Nở làm Chí nghĩ tới bà Ba Bá Kiến. Hai người đàn bà quan tâm tới Chí nhưng một người mặt hoa da phấn, áo quần là lượt nhưng tâm địa tà dâm chỉ cốt thỏa mình, còn một người xấu ma chê quỷ hờn nhưng tâm địa tốt, quan tâm Chí thật lòng. Bát cháo hành trên tay hơi nghi ngút làm cho Chí “vã mồ hôi ra như tắm”. Bát cháo tưởng vặt vãnh đã trở thành liều thuốc giải cảm hữu hiệu cho Chí.
Bát cháo hành – vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành – tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện.
Nhưng bát cháo hành cũng chính là chi tiết đẩy bi kịch của Chí lên tới đỉnh điểm, dẫn tới một kết thúc thảm thương đầy đau đớn. Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở “bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời” và quyết định “dừng yêu” để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí “ngẩn người ra” và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Đó là biến thể của “bát cháo hành”. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. Cuối cùng Chí lựa chọn cầm dao đến nhà Bá Kiến, đâm Bá Kiến và tự sát. Hơi cháo hành đã không cho phép hắn trở lại cuộc sống con quỷ một lần nữa. Hắn để trở về lương thiện chỉ còn cách duy nhất là tự sát. Bát cháo hành đã gọi dậy con người trong Chí để nó thức dậy mặc dù chỉ để khổ đau, để phải bi kịch. Nhưng dẫu thế nó cũng không chấp nhận chết đi mãi mãi. Và bát cháo hành chính là cánh cửa đưa nó thoát khỏi kiếp đọa đày.
Bát cháo hành – một chi tiết nghệ thuật mang đầy dụng công của Nam Cao. Nó góp phần thể hiện tư tưởng nghệ thuật của nhà văn: Điều mà chúng ta thiếu đó chính là lòng tốt – một lòng tốt rất bình thường cũng có thể cứu rỗi con người. Và kết cục của Chí Phèo thể hiện một niềm tin của nhà văn: dẫu có bị bầm dập về nhân hình lẫn nhân tính, lương thiện trong con người đặc biệt là những người nông dân cũng không mất đi, nó chỉ cần đợi có cơ hội là sẽ bùng lên mạnh mẽ.
Qua chi tiết nó cũng cho ta thấy một hiện thực mà nhà văn đau đáu: đó là những định kiến làng xã nông thôn đã tước đi quyền được sống của con người… Qua đó nhà văn cũng gióng lên một hồi chuông khẩn thiết đòi thay máu cho xã hội để ít nhất con người được sống lương thiện.
Bát cháo hành – chi tiết đặc sắc đã góp phần làm nên “nhà văn lớn” Nam Cao. Tác phẩm khép lại nhưng dư âm của tình người trong chi tiết nghệ thuật ấy vẫn còn mãi.
Chi tiết “Tiếng chửi của Chí Phèo” trong Chí Phèo - Nam Cao
Trong nền văn học viết Việt Nam, có những tác giả đã khẳng định vị trí của mình bằng sáng tác đồ sộ mang giá trị nhân văn lớn như đại thi hào Nguyễn Du với “Truyện Kiều” hoặc bằng cách phản ánh những sự kiện trong đại của đất nước như tác gia Tố Hữu, Nguyễn Tuân. Số khác thì đánh dấu bằng tuyên ngôn nghệ thuật như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam… Nhưng cũng có các tác giả đã để lại ấn tượng muôn đời trong lòng người đọc chỉ bằng một một chi tiết nhỏ trong toàn bộ tác phẩm… trong đó có Nam Cao. Và như Macxim Gorki đã khẳng định :”Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn” là vậy.
Người ta cứ nghĩ để viết nên một tác phẩm vĩ đại thì phải đi tìm những thứ to tát từ nơi xa xôi, phải thoát ly hiện thực đau khổ để tìm đến điều mơ tưởng. Không phải vậy, nhà văn – người sáng tạo ra cái đẹp – có thể chỉ tìm được nghệ thuật cao quý từ những điều bình thường nhất, nhỏ bé nhất mà lại nói lên được điều vĩ đại. “Chi tiết nhỏ” là những sự việc, sự kiện bình thường trong một tác phẩm, dường như ban đầu đọc qua ta chỉ nghĩ nó có tác dụng phản ánh hiện thực khách quan mà khi đọc kĩ càng, ta lại phát hiện trong đó một giá trị tư tưởng lớn có ý nghĩa giáo dục và thẫm mĩ cao. “Chi tiết nhỏ” nhưng mang giá trị nghệ thuật đặc sắc góp phần khẳng định lập trường và tài năng của “nhà văn lớn”.
Chí Phèo là một điển hình nghệ thuật về người nông dân từ lương thiện rơi vào tha hóa trở thành quỷ dữ rồi bị gạt ra khỏi xã hội loài người, cuối cùng quay quắt trở về với bi kịch của khát vọng “làm người lương thiện”. Bi kịch bị ruồng bỏ, cô đơn trước đồng loại của Chí Phèo được Nam Cao thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ, rất bình thường và tự nhiên ngay đoạn mở đầu nhưng càng đọc, càng suy ngẫm ta lại càng thấy từng tầng nghĩa sâu sắc cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật của tác phẩm. Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo.
Trong cơn say, hắn ngật ngưỡng bước đi và hắn chửi. Ban đầu hắn chửi trời vì trời sinh ra hắn một con người không hoàn thiện. Rồi hắn “chửi đời” vì đời bạc bẽo đã cưu mang hắn rồi lại vứt bỏ hắn. Tức quá, hắn “chửi cả làng Vũ Đại” đã đẩy hắn vào bi kịch tha hóa thê thảm. Nỗi cô độc đã lên đến tột độ, hắn”chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”! Đau đớn nhất, Chí Phèo chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn” làm hắn mang những bi kịch lớn của cuộc đời. Chí Phèo chửi nhưng lời của hắn lại rơi vào trong im lặng đáng sợ. Không một ai đáp lại lời của hắn. Hắn chửi nhưng chất chứa bên trong là niềm khao khát được giao tiếp, được đồng vọng dù chỉ được đáp lại bằng một tiếng chửi. Nhưng đau xót thay, cả làng Vũ Đại quay lưng với hắn để cuối cùng hắn chửi nhau với ba con chó dữ: “Một thằng say và ba con chó dữ mà làm ầm ĩ cả làng”. Chí Phèo thật sự đã bị gạt bỏ khỏi xã hội loài người.
Tài hoa nghệ thuật Nam Cao được bộc lộ ngay trong đoạn mở đầu truyện ngắn. Nhà văn đã sử dụng rất thành công hình thái ngôn ngữ nửa trực tiếp để tạo nên hiện tượng đa thanh cho giọng điệu kể chuyện. Đoạn văn có lời kể khách quan xen lẫn lời nhận xét của tác giả, có cả lời nhủ thầm của dân làng: “Chắc nó trừ mình ra”. Như vậy, tuy dân làng Vũ Đại không xuất hiện nhưng ta vẫn thấy hình ảnh đám đông và thái độ của họ trước lời chửi Chí Phèo. Nổi bật lên tất cả là giọng Chí Phèo vừa có phần phẫn uất lại vừa cô đơn trước đồng loại: “Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! … Mẹ kiếp! Thế có phí rượi không?” Đó là lời kể của tác giả hay chính suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật đang cất lên tiếng nói.
Nhờ tính chất đa thanh của giọng điệu kể chuyện đã dẫn đến một tính chất đặc sắc khác cho đoạn văn: tính đa nghĩa. Tiếng chửi không chỉ là khao khát được giao tiếp mà còn là sản phẩm của một con người bị rơi vào bi kịch bị tha hóa, không được sống đúng bản chất của một con người. Bên ngoài là tiếng chửi của một kẻ say nhưng bên trong thì hắn rất tỉnh. Lời chửi rất mơ hồ, không động chạm ai, quả là một kẻ say bình thường đang chửi. Nhưng hắn rất tỉnh, rất sáng suốt, không gian trong tiếng chửi thu dẹp dần từ cao đến thấp, từ rộng đến hẹp, từ vô địa chỉ đến có địa chỉ. Từ số đông, hắn chửi một người: “hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đẻ ra Chí Phèo “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết” nhưng chúng ta, người đọc thì biết: Chính xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã sinh ra hiện tượng “Chí Phèo”. Như vậy, hắn mượn rượi để chửi, để phản ứng với toàn bộ xã hội vô nhân đạo. Từng lời cay độc ấy thoát ra nghĩa là lòng hắn đang gào thét cuồng điên, hắn chửi để thỏa mãn lòng rực lửa đốt khi mà cả làng Vũ Đại không ai lắng nghe hắn. Họ thành kiến với hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo vừa mang tâm trạng bất mãn vừa là lời tố cáo sâu sắc xã hội vô nhân đạo với những nếp nghĩ lạc hậu đã cướp đi quyền làm người và ruồng bỏ hắn. Tiếng chửi thật chất là một tiếng kêu cứu thảm thiết của con người đáng thương bị què quạt cả về thể xác lẫn tinh thần cố níu chiếc phao đời để mà tồn tại. Ta đã từng đau xót cho số phận nghèo khổ, tăm tối của chị Dậu, chị Dậu nghèo tới mức phải bán con, bán chó, bán sữa nhưng Ngô Tất Tố không để chị bán nhân phẩm của mình. Còn Chí Phèo, hắn đã bán cả linh hồn cho quỷ dữ với cái giá rẻ bèo và cuối cùng bị ghẻ lạnh, cô đơn trong chính xã hội loài người.Trong đoạn văn, cứ sau một lời kể khách quan mang tính chất thông báo là một lời nhận xét của tác giả. Như vậy, bằng hiện tượng đa nghĩa của giọng điệu, ta không chỉ thấy thái độ, tình cảm của nhân vật mà còn cảm nhận được trái tim nhà văn đang lên tiếng. Đằng sau lời văn lạnh lùng gần như sắc lạnh ấy lại là một tấm lòng xót thương sâu sắc cho nhân vật và cả sự căm phẫn xã hội vô nhân đạo đã đẻ ra hiện tượng Chí Phèo.
Tóm lại, đoạn văn được mở đầu bằng lời chửi của Chí Phèo không chỉ mang nét nghệ thuật dễ nhận thấy, nghệ thuật kết cấu, mà còn mang giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của ngòi bút thấm đẫm tinh thần Nam Cao. Càng đào sâu, càng nghiền ngẫm, người đọc sẽ tìm cho mình những suy nghĩ sâu sắc hơn về kiệt tác “Chí Phèo”.
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết “tiếng chửi” của Chí Phèo đã góp phần làm nên thành công của nhà văn lớn Nam Cao. Nó đã khái quát lên một chân lý nghệ thuật: nghệ thuật chân chính không những tìm thấy cái bình thường trong sự phi thường mà còn phát hiện cái phi thường trong sự bình thường, thậm chí tầm thường. Chỉ có nhà văn lớn có khối óc và trái tim lớn mới làm được điều đó.
Chi tiết “nụ cười và nước mắt”, chi tiết “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt – Kim Lân
Chọn nạn đói năm 1945 – trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống : chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khát ấy. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lí ngổn ngang, bao niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.
Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh,khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “ quay lại nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường…
Nụ cười của Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lí tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8 lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng của nhà văn vào cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người.
Bên cạnh việc khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “ kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Giọt nước mắt của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.
Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt nước mắt như cố kìm nén ( rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Thương con, mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa sâu sa, thể hiện quan niệm sáng tác “ quý hồ tinh, bất quý hồ đa”
Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người khốn khó đó: giưã cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “ Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguuồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “ điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng.
Chi tiết “đoàn tàu” trong Hai đứa trẻ – Thạch Lam
Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam được coi là “một bài thơ trữ tình đượm buồn”. Đây là một truyện ngắn độc đáo có sự kết hợp của chất tự sự và chất trữ tình. Sự xuất hiện của hình ảnh đoàn tàu ở cuối tác phẩm được coi là một chi tiết giàu ý nghĩa, góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này.
Đoàn tàu xuất hiện trong hoàn cảnh đầy tăm tốicủa những kiếp người mỏi mòn nơi phố huyện mà cuộc sống của họ đang chìm ngập trong bóng tối. Tuy nhiên chừng ấy người trong bóng tối vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Với hai chị em Liên thì sự mong mỏi ấy rõ ràng, cụ thể hơn. Chúng chờ tàu từ chiều cho đến khuya để được thấy đoàn tàu và ngày nào cũng thế. Khi nhìn thấy đoàn tàu chạy qua phố huyện thì dường như chúng mới được sống trọn vẹn một ngày.
Từ xa, hình ảnh đoàn tàu đã hiện lên với “ngọn lửa xanh biếc như trơi”,với “tiếng còi vọng lại theo ngọn gió xa xôi”. Rồi đoàn tàu đến gần trong âm thanh dồn dập, ồn ào, rầm rộ, tiếng ghi rít mạnh lên. Khói bừng sáng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường. Một thứ âm thanh mạnh mẽ và huyên náo hẳn. Một thứ ánh sáng lấp lánh, rực rỡ ngập tràn phố huyện. Nhưng đoàn tàu đi qua trong khoảnh khắc rồi dần dần mất hút vào khoảng sâu của đêm tối. Tiếng vang động nhỏ dần rồi tắt hẳn, trả lại phố huyện nét vẻ vốn có của nó.
Chi tiết đoàn tàu xuất hiện đã góp phần soi rõ tâm trạng các nhân vật, đặc biệt là chị em Liên. Hai chị em đã chờ tàu trong niềm thiết tha, khắc khoải rồi đón tàu trong niềm háo hức, say mê, tiễn tàu trong niềm nuối tiếc, bâng khuâng. Chúng chờ tàu không phải vì tò mò, không phải để bán hàng, không đợi người quen mà là để được nghe âm thanh, được nhìn ánh sáng và được sống với một thế giới khác.
Đây còn là chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng, góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Đoàn tàu là hình ảnh biểu trưng cho quá khứ. Nó chạy về từ Hà Nội, từ miền kí ức tuổi thơ thể hiện ước mơ và khát vọng của chị em Liên. Đó là ước mơ được quay trở về quá khứ, sống một cuộc sống tươi đẹp như quá khứ đã qua. Khi hiện tại cuộc sống làm con người không thỏa mãn, người ta thường có xu hướng quay trở lại quá khứ, đặc biệt là quá khứ tươi đẹp. Đặt trong mối quan hệ với hiện tại, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tràn đầy bóng tối, tẻ nhạt, đơn điệu nơi phố huyện nghèo. Thế giới rực rỡ ánh sáng, ngập tràn âm thanh, chứa đựng bao điều mới mẻ, thú vị. Và thế giới ấy còn giúp những người dân nơi phố huyện nhận ra còn có một cuộc sống đáng sống hơn nơi phố huyện nghèo – cái ao đời phẳng lặng kia. Chi tiết đoàn tàu xuất hiện còn khơi dậy khát vọng và ước mơ của chị em Liên, của những người dân phố huyện về một tương lai sáng lạn. Nó đánh thức khát vọng mơ hồ trong cõi vô thức của hai tâm hồn thơ dại: khát vọng vượt thoát, khát vọng đổi thay, khát vọng kiếm tìm. Nhưng rồi đoàn tàu ấy lại biến mất. Ước mơ thoát khỏi hiện tại vốn đã rất mong manh, xa xôi. Hình ảnh đoàn tàu như niềm vui, tia hi vọng chợt lóe lên rồi vụt tắt. Tất cả trở nên mơ hồ hơn và càng khắc sâu vào nỗi khổ của chừng ấy con người nơi phố huyện nghèo.
Chi tiết nhỏ nhưng đã trở thành điểm sáng tư tưởng cho tác phẩm. Nó thể hiện lòng nhân đạo, niềm xót thương vô hạn đối với những kiếp người tàn lụi, vô vọng và bế tắc. Từ đó Thạch Lam muốn thức tỉnh những con người đang sống trong cái ao đời phẳng lặng, tù đọng một khát vọng sống, khát vọng vượt thoát, khát vọng đổi thay. Chính Thạch Lam cũng khao khát muốn đem đến cho họ tia ánh sáng của sự sống để văn chương trở thành “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực”
Chi tiết “căn buồng Mị nằm” và chi tiết “tiếng sáo đêm xuân” trong Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài
Sống gắn bó nghĩa tình cùng mảnh đất Tây Bắc, với sở trường quan sát những nét riêng về phong tục văn hóa của những con người nơi cao nguyên đá mờ sương ấy, Tô Hoài đã khắc họa được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm và góp thêm nét vẽ riêng vào bức tranh Tây Bắc.
Với gam màu xám lạnh, u tối, Tô Hoài đã cho người đọc cảm nhận được không gian sống của Mị: “Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Căn buồng Mị nằm kín mít, chỉ có ô vuông bằng bàn tay trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị cứ ngồi đấy mà trông ra ngoài, đến khi nào chết thì thôi”. Đây là chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, miêu tả không gian sống của Mị ở nhà thống lí Pa Tra. Sau ý định tìm lá ngón tự tử không thành vì thương cha, Mị dập tắt ngọn lửa lòng về nhà thống lí và tiếp tục chôn vùi tuổi xuân của mình trong địa ngục trần gian đó. Căn buồng ấy kín mít, có ô vuông bằng bàn tay. Hình ảnh đó giàu sức gợi, khiến người ta liên tưởng đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị. Đó là một không gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông, rộng lớn của đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng trong căn buồng Mị nằm đối lập với một thế giới bên ngoài lồng lộng của mây trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, nó đối lập với cái giàu có, tấp nập của nhà thống Lí Pá Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có nhiều tiền nhiều thuốc phiện nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở, thậm chí không bằng con ở. Căn buồng ấy giống như một miền đời bị quên lãng
Description: http://thiquocgia.vn/uploads/1/news/summary/1104/download%20%281%29.jpg
Trong căn buồng ấy, chân dung số phận khổ đau của đời Mị được nhà văn khắc họa thật rõ nét: Mị sống câm lặng như đá núi “ không nói”, lầm lụi, chậm chạp trơ lì như “ con rùa” quẩn quanh nơi xó cửa. Nếu ở trên, Mị có lúc tưởng mình là “con trâu con ngựa” – nhưng hình ảnh đó mới chỉ gợi nỗi khổ cực vì lao động vất vả thì hình ảnh “ con rùa” có sức ám ảnh mang ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bị bỏ quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian: chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Cuộc sống của Mị không có sắc màu, âm thanh, không có cả ngắn dài thời gian, không chia biệt đêm ngay.
Không chỉ có thể, Mị còn không có ý thức về sự sống đợi đến bao giờ chết thì thôi. Phải chăng thứ ngục thất tinh thần ấy đã làm héo mòn, tàn úa từng ngày từng tháng tâm hồn Mị. Mị sống như loài thảo mộc cỏ cây không hương không sắc, lay lắt, dật dờ, vô hồn, vô cảm. Không còn nữa một cô Mị đẹp như đóa ban trắng của núi rừng Tây Bắc vừa thắm sắc, đượm hương, một người cô Mị khao khát tình yêu và tự do có ý thức sâu sắc về quyền sống, từng thiết tha xin cha “ đừng gả con cho nhà giàu”, từng có ý định ăn lá ngón là kết thúc chuỗi ngày sống mà như chết. Như vậy, vượt lên trên nghĩa tả thực về không gian sống của MỊ, căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị.
Chi tiết đó đã góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà . Nhà văn đã tố cáo sâu sắc chế độ cai trị miền núi đã đầy đọa con người, làm tê liệt quyền sống, quyền khao khát hạnh phúc của họ. Đồng thời, Tô Hoài bày tỏ tấm lòng xót xa thương cảm cho số phận người phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo quen thuộc trong văn học
Nếu hình ảnh căn buồng Mị nằm là một trong những chi tiết có sức ám ảnh ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ nhất thì hình tượng tiếng sáo đêm tình mùa xuân lại có sức quyến rũ lòng người nhất. Hình tượng tiếng sáo nằm ở phần giữa tác phẩm, ngòi bút Tô Hoài đã rất dụng công để miêu tả những thanh âm của tiếng sáo vùng núi cao Tây Bắc trong đêm tình mùa xuân. Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại,tê liệt, chai lì cái nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài đã đánh thức tâm hồn Mị, tiếng sáo đã vọng đến đôi tai Mị. Tiếng sao được miêu tả từ xa đến gần, với những cung bậc khác nhau: khi tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo văng vẳng gọi bạn đầu làng, tiếng sáo lửng lơ bay ngoài đường, trong đầu Mị , rập rờn tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi
Trước hết, đây là chi tiết có ý nghĩa tả thực về nét đẹp văn hóa của miền núi cao Tây Bắc, khiến người ta liên tưởng đến âm thanh quen thuộc, gần gũi của núi rừng trong những đêm xuân ở Hồng Ngài. Nếu Tây Nguyên có tiếng cồng, tiếng chiêng âm vang khắp bản làng, rừng núi, nếu miền quê đồng bằng Bắc Bộ có tiếng trống chèo, tiếng hát giao duyên, tiếng đàn bầu thánh thót thì với những người dân Tây Bắc, họ vốn ít nói, kiệm lời, họ gửi lòng mình vào tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng kèn môi, thổi lá để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu. Tiếng sáo vang lên với những cung bậc khác nhau, khi xa khi gần, khi trầm bổng khoan thai, khi rập rờn, khi lấp ló…Âm thanh tiếng sao vang lên những ca từ mộc mạc thể hiện lẽ sống hồn nhiên, yêu đời, phóng khoáng của những con người nơi đây “ Mày có con trai, con gái ta đi tìm người yêu…”. Tiếng sáo mang đến chất thơ, làm dịu mát cuộc sống trăm đắng ngàn cay với nỗi đời cơ cực của con người nơi đây, khiến mảnh đất Tây Bắc vốn xa lạ, hoang vu trở nên gần gũi, thơ mộng.
Không dừng lại ở ý nghĩa tả thực, chi tiết tiếng sáo góp phần diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, khiến lòng Mị thiết tha, bổi hồi, nhẩm thầm bài hát của người đang thổi và những kí ức đẹp đẽ nồng nàn của người con gái đã trở về. Tiếng sáo đã làm bừng lên khát vọng sống, Mị ý thức hiện tại mình vẫn còn trẻ, Mị ý thức về quyền hạnh phúc “ Mị muốn đi chơi”, Mị sửa soạn vào nhà…Tiếng sáo khiến Mị quên đi thực tại khổ đau: khi Mị định ăn lá ngón để chết ngay chứ không muốn nghĩ về ngày trước nữa thì tiếng sáo lửng lơ ngoài đường lại đưa Mị trở về với niềm khát sống, khi bị trói đứng cả đêm, tâm hồn Mị vẫn bay bổng cùng tiếng sáo, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi. Nếu căn buồng Mị nằm biểu tượng cho thứ ngục thất tinh thần giam hãm đời Mị, thì hình tượng tiếng sáo trở thành biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống, khát vọng tình yêu trong tâm hồn Mị.
Chi tiết góp phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn và thành công của ngòi bút Tô Hoài. Đó là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn đối với nét đẹp văn hóa của và vẻ đẹp tâm hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất thơ, lai láng dư vị trữ tình có sức sống lâu bền trong tâm hồn người đọc.
Chi tiết “Nắm lá ngón” trong “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài
Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam. Có lẽ do sự trải nghiệm và dồi dào vốn sống mà ông có thể viết nên những trang văn hay dù chỉ mới học hết bậc tiểu học. Nhưng tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê. Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng bào Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó, hình tượng “lá ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.
Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuạt có vị trí nghệ thuật vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ – hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.
Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị – người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa về…có một cô con gái. Lúc nào cũng vậy,…mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của Tô Hoài: Đi thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu một thực tại không tươi sáng. Sự hiện diện song song giưx “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngầm ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị – một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ – ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở hhơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhụcđến tột cùng. Mị sôngs không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đoc cũng chính là nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.
Ta có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên.
Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra.
Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và… cô sẽ tự do tâm hồn, và … lá ngón một lần nữa xuất hiện.
Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn.
Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễ ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.
Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!
Chi tiết “đôi bàn tay Tnú” trong Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành.
Bén duyên văn tự với mảnh đất Tây Nguyên, nhà văn đất Quảng đã viết Rừng xà nu như một lần nữa khẳng định với người đọc: ông là nhà văn của mảnh đất Tây Nguyên. Khơi nguồn cho xúc cảm của người nghệ sĩ, bên cạnh hình tượng xà nu, đôi bàn tay T nú cũng lấp lánh sắc màu ý nghĩa.
Đôi bàn tay T nú xuất hiện khá nhiều lần trong Rừng xà nu như hình ảnh hoán dụ nói cùng ta số phận và phẩm chất của người anh hùng Tnú. Đôi bàn tay Tnú dắt Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu gạo cơm nuôi giấu cán bộ, bàn tay mang đá trắng ba ngày từ đỉnh núi Ngọc Lĩnh trở về, bàn tay lấy đá tự đập vào đầu mình trừng phạt vì học mãi không được cái chữ của cụ Hồ…Đôi bàn tay ấy thể hiện con người có ý chí, gan góc, một lòng trung thành với Đảng, với Cách mạng.
Đó còn là đôi bàn tay chở che, yêu thương mẹ con Mai, bàn tay gắn bó máu thịt với quê hương xứ sở. Sau 3 năm đi lực lượng, về đến con suối đầu làng, chính đôi bàn tay ấy đã vục dòng nước mát quê hương để rửa mặt, để xúc động trong hoài niêm.
Bàn tay T nú còn là bàn tay tín nghĩa không biết phản bội. Sa vào tay giặc khi còn là cậu bé liên lạc, đôi bàn tay ấy đặt lên bụng mà chắc nịch khẳng định: “ cộng sản ở đây” Đôi bàn tay ấy đã thể hiện sâu sắc một lòng tín nghĩa, chí tình với cách mạng.
Nhưng bàn tay T nú xuất hiện trong tác phẩm đâu chỉ trong hình hài lành lặn, đôi bàn tay đau thương đầy ám ảnh. Ai đọc Rừng xà nu dù một lần thì chắc khó có thể quên hình ảnh mười ngón tay Tnu rừng rực cháy lửa xà nu như mười ngọn đuốc. “ Anh không cảm thấy lửa cháy ở mười đầu ngón tay. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, trong bụng mình”. Diệu kì thay, chính trong thử thách đau thương ấy lại tỏa sáng mạnh mẽ ý chí, nghị lực phi thương, sự gan góc kiên cường của người anh hùng. Bàn tay đau thương ấy trở thành vết thương chưa khi nào liền miệng, là bằng chứng tội ác của kẻ thù, nó cũng trở thành mối di hận cả đời Tnú mang theo.
Bàn tay ấy còn tỏa sáng chân lí của thời đại cách mạng mà nhà văn muốn gửi gắm: Tnú và người dân quê anh thất bại trước Mĩ Diệm bởi bàn tay anh và họ chỉ có tay không và đơn thương độc mã. Đau thương là kết cục tất yếu khi kẻ thù cầm súng ta chưa cầm giáo mác. Và khi có giáo mác trong tay, sức sống tinh thần quật cường trong Tnú cũng dân làng lại bừng dậy. Xác mười tên giặc ngổn ngang quanh đống lửa xà nu. Rồi Tnú đi lực lượng và với chính bàn tay tật nguyền ấy, anh đã bóp chết tên tướng chỉ huy trong hầm cố thủ. Bàn tay Tnú vì thế còn là biểu tượng cho sức mạnh quật cường của người Tây Nguyên: từ trong đau thương mà mạnh mẽ vừng lên, vươn dậy.
Xây dựng chi tiết đôi bàn tay Tnú, Nguyễn Trung Thành tha thiết ngợi ca phẩm chất cao quý của người anh hùng và cũng là của chính người dân Tây Nguyên ông từng tha thiết yêu thương và gắn bó. Bàn tay Tnu có thể xem là một điển hình nghệ thuật độc đáo kết tinh tài năng, tâm huyết của người con Tây Nguyên – Nguyễn Trung Thành.
“Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vai trò quan trọng như một chữ trong một bài thơ tứ tuyệt. Trong đó, có những chữ đóng vai trò đặc biệt như nhãn tự trong thơ vậy” ( Nguyễn Đăng Mạnh). Bàn tay T nú hẳn cũng là nhãn tự đặc biệt để ta trông nhìn soi chiếu phẩm chất người anh hùng.
Chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” trong Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đạt được sự hàm súc, đa nghĩa một phần là nhờ nhà văn đã sáng tạo được những hình ảnh, chi tiết giàu giá trị biểu tượng. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là một trường hợp như vậy.
Hình ảnh tấm ảnh trong bộ lịch cuối năm đã khép lại tác phẩm nhưng đọng lại mãi với những suy tư, tự nghiệm của nghệ sĩ Phùng và người đọc: “Không những trong bộ lịch năm ấy …hoà lẫn trong đám đông”. Không khó khăn mấy người đọc cũng nhận thấy ở đây dường như có hai bức ảnh trong một khuôn hình
Trước hết đó là một bức ảnh thuần nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật: Một bức ảnh mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn là một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự may mắn của người nghệ sĩ (sau hàng tuần mai phục, Phùng đã chộp được). Một bức ảnh về con thuyền được chụp từ ngoài xa với vẻ đẹp hài hoà giữa con người và cảnh vật. Một cảnh đẹp được ghi lại bằng một ấn tượng thuần tuý nghệ thuật. Một bức ảnh không chỉ đem đến một niềm hạnh phúc cho người sáng tạo mà còn đủ sức thuyết phục với cả những nhà sành nghệ thuật và có sức sống lâu bền “ mãi mãi về sau”…
Đằng sau bức ảnh nghệ thuật đó là một bức ảnh cuộc sống hiện thực trần trụi, lam lũ mà trung tâm là hình ảnh người đàn bà vùng biển cao lớn với dáng người thô kệch…bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông. Một hình ảnh không còn thơ nữa mà rất đời. Hình ảnh này đã trở thành một ám thị đối với Phùng “mỗi lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy”. Nhưng tại sao chỉ riêng Phùng mới thấu thị như vậy mà những người khác thì không? Phải chăng vì Phùng biết nhìn kĩ, nhìn lâu, nhìn thẳng; biết nhìn xuyên qua màu hồng hồng của ánh sương mai, nhìn cho ra được những “thô kệch, ướt sũng, nhợt trắng, bạc phếch…” Và điều quan trọng nhất là Phùng biết nhìn bằng trải nghiệm. Hay nói khác đi Phùng không chỉ nhìn mà còn sống trong cuộc đời, đau đáu nỗi đau của người đàn bà hàng chài, lắng nghe câu chuyện của chị.
Dùng nghệ thuật tương phản kết hợp với một chút phi lí (bức ảnh đen trắng nhưng lại nhìn ra màu hồng hồng), Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một ẩn dụ nghệ thuật với bao nhiêu thông điệp, nhận thức:
Thứ nhất, nghệ thuật cất lên từ cuộc sống nhưng giữa cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống luôn có khoảng cách. Đôi khi ngay đằng sau cái đẹp mơ màng và tưởng như toàn bích kia lại chứa đựng trong đó những hiện thực cuộc sống còn đầy khiếm khuyết, nhức nhối. Không cẩn thận cái đẹp thuần tuý nghệ thuật lại trở thành cái đẹp giả dối…
Thứ hai, cần phải nhìn thẳng vào cuộc sống dù nó không phải thơ mộng như chúng ta muốn
Thứ ba, cần phải kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống, muốn phản ánh trung thực cuộc sống người nghệ sĩ phải đi đến với cuộc đời, cúi xuống thật gần những số phận cá nhân vốn nhiều bi kịch, lắng nghe câu chuyện của họ…
Chi tiết này đã gieo ra một tình huống tự nhận thức mà ở đó người ta thấy rõ hơn về nhân vật Phùng: Phùng không phải tìm kiếm ở đâu mà anh đang cày xới, lật lại, đào sâu hơn vào chính bức ảnh của mình, chính thứ nghệ thuật tưởng như đã hoàn mĩ của mình. Không ai bắt anh làm thế và không ai biết anh làm thế, nhưng với trách nhiệm, lương tâm của một nghệ sĩ chân chính buộc anh phải liên tục trăn trở như vậy. Con người Phùng hay cũng chính hình ảnh tác giả bởi nhà văn đã từng đặt mệnh lệnh cho mình: Không có quyền miêu tả cuộc sống một cách hời hợt. Sự lo lắng cho con người đã trở thành nỗi quan hoài thường trực.
Không phải đến cuối chi tiết bức hình mới xuất hiện và cũng không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại kết thúc truyện ngắn của mình bằng chi tiết này: Phùng nhận nhiệm vụ chụp ảnh cho bộ lịch cuối năm là anh đã khoác vào mình một thiên chức quan trọng của nghệ thuật (làm sao phải đẹp để thoả mãn nhà xuất bản và thị hiếu mọi người nhưng đồng thời lại nói được trung thực nhất về cuộc sống). Phùng đã làm nên bức ảnh bằng tất cả niềm đam mê và trách nhiệm và anh đã có được niềm vui của một người nghệ sĩ chân chính. Nhưng khép lại tác phẩm, chính bức ảnh ấy lại làm anh không dứt khỏi những ưu tư, vỡ ra bao nhiêu nhận thức. Chi tiết bức ảnh đã trở thành một cấu tứ cho truyện ngắn này.
Riêng tôi vẫn tự đặt câu hỏi: Nếu được chụp lại bức ảnh Phùng sẽ chụp như thế nào? Điều đó hẳn cũng có nhiều thú vị!
Đề: cảm nhận về hình ảnh giọt nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao và  giọt nước mắt của A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Bài làm.
Đề tài về người nông dân từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của nhiều nhà văn. Ngô Tất Tố khắc họa tình cảnh của người nông dân trong nạn sưu cao thuế nặng qua nhân vật Chị Dậu trong “Tắt đèn”. Kim Lân lại viết về cuộc sống nghèo đói của người nông dân trong nạn đói qua “Vợ nhặt”. Cùng chung cảm hứng sáng tác ấy, Nam Cao và Tô Hoài đã tìm đến người nông dân để bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc trước số phận đáng thương của họ mà tiêu biểu là qua hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện mỗi nhà văn không chỉ cho ta thấy được số phận khổ cực của người nông dân mà cao hơn cả là cho ta thấy phẩm chất tốt đẹp, đáng quý của họ. Điều đó được thể hiện rất rõ khi Nam Cao và Tô Hoài dụng công miêu tả những giọt nước mắt trong hai tác phẩm. Đó là giọt nước mắt của Chí Phèo và A Phủ.
Nam Cao và Tô Hoài đều là hai nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Nam Cao tập trung ở giai đoạn trước cách mạng với hai đề tài chính là về người nông dân và người trí thức nghèo. Còn Tô Hoài có nhiều sáng tác nổi bật sau cách mạng tháng Tám. Ông có một lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỉ lục trong kho tàng văn học Việt Nam. Truyện “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” đều viết về cuộc sống khổ cực của người nông dân bị đè nén áp bức. Tuy nhiên ở họ luôn có những phầm chất cao đẹp. Tiêu biểu cho những con người ấylà nhân vật Chí Phèo và A Phủ. Trong số rất nhiều chi tiết, hình ảnh quan trọng thì hình ảnh giọt nước mắt của hai nhân vật ấy mang lại nhiều sức gợi và gợi nhiều suy nghĩ trong người đọc.
Ta cần hiểu “chi tiết nghệ thuật” là những biểu hiện cụ thể lắm khi nhỏ nhặt nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, tạo ra sức hấp dẫn cho người đọc. Thường có những chi tiết miêu tả thiên nhiên, chi tiết miêu tả không gian, chi tiết miêu tả về hành động, nội tâm của nhân vật…Chi tiết đóng vai trò quan trọng trong một tác phẩm văn học. Nó tạo ra tính hình tượng, thẩm mĩ cho tác phẩm. Chi tiết còn mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ thể hiện quan niệm về con người và cuộc sống của nhà văn góp phần làm nổi bật chủ đề tưởng của tác phẩm. Chi tiết cũng là tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện, là bước ngoặt trong hành động của nhân vật. Như vậy, tất cả các chi tiết ấy đều là kì công, tìm tòi, sáng tạo của mỗi nhà văn. Với vai trò quan trọng như vậy, chi tiết nghệ thuật giọt nước mắt trong “Chí Phèo” và “Vợ chồng A Phủ” đã góp phần làm rõ chủ đề tư tưởng, những thông điệp mà mỗi nhà văn muốn gửi tới bạn đọc.
Trước hết đến với hình ảnh trong tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm viết về nhân vật Chí Phèo, một người nông dân bị đày đọa đến mức bị tha hóa. Dưới sự tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, Chí Phèo từ một anh canh điền hiền lành lương thiện bị tha hóa đến cùng đường. Nhưng rồi chính con người ấy lại được thức tình nhờ sự chăm sóc ân cần của Thị Nở. Khi Chí Phèo say, Thị Nở đã mang cho hắn một bát cháo hành làm hắn rất ngạc nhiên “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt”.Chí Phèo đã khóc bởi đây là lần đầu hắn được người ta cho. Xưa nay hắn phải đi cướp bóc, dọa nạt người khác chứ đã bao giờ có ai cho không hắn cái gì. Hơn nữa đây lại là của một người đàn bà cho hắn, hắn cầm bát cháo hành khói bốc lên nghi ngút mà lòng bâng khuâng. Lần đầu tiên hắn được ăn cháo hành  và cũng là lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Giọt nước mắt ấy thể hiện một niềm vui, xúc động bởi hắn còn được người ta quan tâm. Trong các xã hội làng Vũ Đại hắt hủi, xa lánh, coi Chí như một con quỷ dữ thì vẫn còn có một người như thị quan tâm đến hắn. Hắn xúc động bởi xã hội loài người vẫn đón nhận hắn. Đó còn là giọt nước mắt của niềm vui, niềm hạnh phúc bởi hắn thấy mình còn có ý nghĩa trong cuộc đời, cuộc sống vẫn còn có ý nghĩa. Chí vui sướng hạnh phúc khi nghĩ rằng Thị Nở chấp nhận được hắn thì mọi người cũng sẽ yêu quý hắn. Và giọt nước mắt ấy còn khơi nguồn cho sự thức tỉnh bởi chính từ ấy mà Chí đã biết hối hận về tội ác trước đây và có khao khát làm người lương thiện, làm người có ý nghĩa trong cuộc sống. Giọt nước mắt hạnh phúc của Chí Phèo tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Chí. với giọt nước mắt ấy, có lẽ cuộc sống của Chí sẽ đổi khác. Chí sẽ thành người lương thiện được mọi người chấp nhận. Chí muốn làm người lương thiện “Trời ơi hắn thèm lương thiện”, “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” và mong muốn Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy đã được thức tỉnh và khát khao được hoàn lương.
Thế nhưng hạnh phúc đến với Chí Phèo chưa được bao lâu thì hắn đã bị hắt hủi, bị Thị Nở cự tuyệt. Chỉ với mấy lời nói tưởng chừng như gián tiếp của bà cô thị đã đẩy Chí một lần nữa vào hố sâu của sự xa lánh, bị tước đoạt quyền làm người. Sau khi bị Thị Nơ cự tuyệt, Chí Phèo đã “ngồi ngẩn mặt ra không nói gì”. Chí Phèo muốn níu kéo Thị Nở nhưng bị thị gạt tay ra, hắn đau đớn “ôm mặt khóc rưng rức”. Chí Phèo khóc là bởi hắn đã bị Thị Nở cự tuyệt, và cũng đồng nghĩa với việc Chí bị cả xã hội loài người cự tuyệt. Bởi một người xấu ma chê, quỷ hờn như thị mà cũng không chấp nhận Chí thì trong cái xã hội ấy có ai sẽ có thể chấp nhận được y. Chí đã từng mơ ước chính Thị sẽ cái cầu nối đưa hắn trở về với thế giới loài người nhưng bây giờ chính thị lại cắt đứt cái cầu nối kì diệu ấy. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức” bởi cứ thoảng thấy hương vị của cháo hành, hương vị của tình yêu thương, chăm sóc. Càng nghĩ, Chí càng cảm thấy đau đớn, xót xa. Hắn khóc bỏi đau khổ, tuyệt vọng. Ý định làm người  lương thiện của y vừa mới chớm nở thì nay đã vụt tắt. Giọt nước mắt của Chí còn thể hiện cho sự căm phẫn đối với xã hội bất lương lúc bấy giờ mà tiêu biểu là qua Bá Kiến và bà cô Thị Nở. Đó còn là sự thức tỉnh của Chí Phèo khi nhận ra bi kịch của mình. Hắn nhận ra mình không thể trở thnahf người lương thiện được nữa. Chí nhận ra kẻ thù của mình chính là Bá Kiến. Đây là những giọt nước mắt đau đớn, giọt nước mắt ấy đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong nhận thức và hành động của Chí Phèo, từ đó dẫn đến việc Chí tự kết liễu được mình sau khi đâm chết Bá Kiến. Viết về sự thức tỉnh ấy của chí Phèo, Nam Cao thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc, nhà văn đã nhận ra bên trong mỗi con người tưởng như đã bị tha hóa, tưởng như đã mất đi phần lương tiện thì ở họ vẫn nhen nhóm lên ánh sáng của lương tri. Nhà văn cũng dụng công khi nói về giọt nước mắt của sự hoàn lương mà ông thường ca ngợi đó là “giọt châu của loài người”.  Giọt nước mắt của sự thức tỉnh ấy cũng được Nam Cao nói đến trong tác phẩm “Đời thừa” qua nhà văn Hộ. Nam Cao đã miêu tả giọt nước mắt của nhân vật Hộ “Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh người ta bóp mạnh”. “Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc”. Hộ khóc vì ân hận khi nhận ra hành động thô bạo của mình với vợ con. Như vậy sáng tác của Nam Cao đều rất dụng công miêu tả sự thức tỉnh nhân phẩm trong mỗi con người.
Đến với nhà văn Tô Hoài trrong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm viết về cuộc sống đau khổ của người dân miền núi trong đó có A Phủ, họ phải chịu thống trị của bọn phong kiến miền núi. A Phủ vì đánh con quan nên bị bắt và bị nộp phạt và trở thành người ở trong nhà quan thống lí. Một lần chăn bò, A Phủ sơ ý đã hổ bắt mất một con bò, quan thống lí đã trói A Phủ vào cột nhà gần với nơi Mị (người con dâu gạt nợ cho nhà thống lí) thưòng trở dậy ngồi thổi lửa hơ tay vào mỗi đêm. Giọt nước mắt của A Phủ được cảm nhận bởi Mị khi cô ngồi sưởi lửa. Một lần ngồi sưởi lửa, Mị lé mắt trông sang thấy “Hai mắt A Phủ vừa mở. Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là giọt nước mắt hiếm hoi của một người đàn ông mà lại là một người gan bướng như A Phủ, Giọt nước mắt ấy thể hiện cho nỗi đau đớn đến tận cùng. Đau đớn vì những sợi dây mây thít chặt vào người nhưng có lẽ đau đớn hơn cả là trong lúc này A Phủ nghĩ đến tình cảnh đáng thương của mình. A Phủ khóc nhưng không hề cam chịu. Đó là giọt nước mắt của con người giàu nghĩa khí. Giọt nước mắt của A Phủ lại “lấp lánh” thể hiện cho khát vọng được sống, được tự do. A Phủ là một chàng trai mạnh mẽ, đã dám đánh lại con quan thống lí Pá Tra mà trong hoàn cảnh này lại khóc. Khát khao được sống, được tự do trong con người của một chàng trai miền núi như đang trào dâng mãnh liệt để rồi nó bật thành những giọt nước mắt. Giọt nước mắt của A Phủ cũng phần nào giống với Chí Phèo bởi nó thể hiện sự căm phẫn tận cùng tội ác của bọn địa chủ phong kiến. Chính bọn địa chỉ phong kiến đã tước đi quyền sống của Chí Phèo, của A Phủ và của bao người nông dân khác.
Nhưng nếu như giọt nước mắt của Chí Phèo làm hắn rơi vào bế tắc thì giọt nước mắt của A Phủ đã tìm được sự đồng điệu cảm thông. Nhà văn không để cho nhân vật của mình rơi vào “bước đường cùng” mà giúp cho họ một hướng đi khi đã giúp họ có những thay đổi trong tình cảm và nhận thức. Giọt nước mắt của A Phủ đã tác động đến nhận thức và tình cảm của Mị. Nhìn A Phủ khóc, Mị đã nhớ lại “đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không biết lau đi được”. Cô đồng cảm sâu sắc với A Phủ, đó là niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ. Từ người khác, nghĩ đến hoàn cảnh của mình rồi từ lòng thương mình dẫn đến thương người. Từ đó Mị có sự thay đổi nhận thức rất quan trọng. Mị nhận thấy sự bất công vô lí của xã hội, thấy sự oan ức trong tình cảnh của APhủ “người kia việc gì mà phải chết”. Mị cũng nhận ra sự tàn bạo của bọn của bọn địa chủ phong kiến “chúng nó thật độc ác”. Như vậy chính từ giọt nước mắt của A Phủ đã làm lay động, thức tỉnh tâm hồn Mị. Đó chính là tiền đề quan trọng để tạo ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị và A Phủ. Từ những nhận thức đáng quý ấy, Mị đã có hành động quyết liệt là cứu thoát A Phủ và tự giải thoát cho chính mình. Nếu không có sự thức tỉnh từ giọt nước mắt của A Phủ thì cô Mị không thể có hành động táo bạo và quyết liệt như vậy và cuộc sống của người nông dân miền núi vẫn là sự bế tắc cùng đường.  Chi tiết “giọt nước mắt của A Phủ’ là một chi tiết nhỏ nhưng mang lại rất nhiều ý nghĩa, nó góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Hình ảnh đó cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi nhà văn đã đồng cảm sẻ chia với những bất hạnh của con người. Đồng thời Tô Hoài cũng trân trọng khát vọng tự do ở người nông dân. Và chỉ bằng chi tiết nhỏ đó thôi nhà văn cũng đã hé mở về cuộc sống tốt đẹp cho họ.
Như vậy, chi tiết về giọt nước mắt của Chí Phèo và giọt nước mắt của A Phủ đều thể hiện được những nỗi đau và sự bế tắc của những người nông dân trong tình cảnh bị đè nén. Đằng sau đó là một niềm khát khao về sự sống, khát khao tự do. Tuy nhiên hai tác phẩm được viết trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau với dụng ý nghệ thuật khác nhau nên mỗi chi tiết có sức biểu đạt và ý nghĩa riêng. Giọt nước mắt của Chí Phèo thể hiện sự thức tỉnh của người nông dân nhưng cuối cùng lại rơi vào bế tắc. Điều đó thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học phê phán thời kì trước cách mạng Tháng Tám. Giọt nước mắt của A Phủ làm lay động thức tỉnh con người và hướng họ đến cuộc đời tươi sáng. Đó chính là dấu ấn của văn học sau 1945, khi các nhà văn đã được cách mạng soi sáng nên nhìn cuộc đời bằng cái nhìn lạc quan để mở ra cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân. Qua điều đó Tô Hoài muốn khẩng định chỉ cách mạng mới đem lại cho người nông dân một cuộc đời mới.
Qua việc khắc họa những chi tiết tiêu biểu như trên, nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã khẳng định tài năng của mình trong việc xâu dựng các chi tiết điển hình để xây dựng thành công tâm lí nhân vật từ đó mà góp phần quan trọng vào việc khắc họa chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Với ý nghĩa đó, tác phẩm “Chí Phèo”- Nam Cao, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài trở thành những tác phẩm tiêu biểu trong dòng văn học Việt Nam.
Đề số 29: So sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí phèo và cháo cám trong Vợ nhặt
SO SÁNH HÌNH ẢNH BÁT CHÁO TRONG "CHÍ PHÈO" VÀ CHÁO CÁM TRONG "VỢ NHẶT" ĐỀ: Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát cháo hành trong truyện Chí Phèo (Nam Cao) và bát cháo cám trong truyện Vợ nhặt (Kim Lân).
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI:
 I. Mở bài: - Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành
- Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám Mở bài tham khảo: Nam Cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
II. Thân bài: lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau 1. Hình ảnh bát cháo hành: * Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.
* Ý nghĩa: – Về nội dung:
+ Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo
 + Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng
+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm h n Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
– Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
2. Hình ảnh n i cháo cám: * Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.
* Ý nghĩa: – Về nội dung:
+ Đối với gia đình Tràng, n i cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.
+ Qua chi tiết n i cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ: Bà cụ Tứ gọi cháo cám là ‖ chè khoán‖, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con - >> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. N i cháo cám là n i cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem n i cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn. Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước n i cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ ch ng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. – Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. So sánh: – Giống nhau:
+ Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.
+ Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội:
Ở ―Chí Phèo‖ là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình di, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật].
 Ở ―Vợ nhặt‖, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.
+ Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn. – Khác nhau: + Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao. + N i cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức t nh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Lí giải sự giống và khác nhau đó:
+ Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945
+ Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
SO SÁNH PHÙNG VÀ VŨ NHƢ TÔ ĐỀ: So sánh cách nhìn nghệ thuật của hai nhân vật: Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Nhƣ Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài ( u hướng ra cả nhân vật nam nên các em chú ý nhé!
 BÀI LÀM: Nghệ thuật luôn đi lên t cái nhìn chân chính. Đúng như thế, nói đến nghệ thuật ta không thể không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ ấy luôn gắn liền với nhau. Hai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng họ cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật. Quan niệm đó được thể hiện qua hình tượng hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hai nhà văn đã xây dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đ ng một cách trùng hợp và tài tình. Cũng nhờ như thế mà hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm h n con người đều được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị. Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một trong những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm thía nhiều dư vị về cuộc đời, thấm đẫm nghệ thuật, cái mà ông luôn xem là bắt ngu n t hiện thực cuộc sống. Cũng nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đời qua chính ngòi bút của ông. Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp một bức ảnh để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh bắt gặp một hình ảnh chiếc thuyền đang t t ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu h ng do ánh mặt trời chiếu vào. Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đ ng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ l ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của ch ng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng. Tình huống được tạo nên t ngòi bút của ông là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy được cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài, t đó ông gợi mở những vấn đề mới vô cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật. Tiếp đến là Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mà thông qua nhân vật Vũ Như Tô ta càng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống. Vũ Như Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài và đam mê nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ chết hay ch vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ. Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì m hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ , không kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó s tự trở thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô v a là phạm nhân và cũng v a là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình. Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân. Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng ch vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng bu n. Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng t n tại khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật. Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì ch đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn g gề và nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống ch là nghệ thuật suông, không xứng đáng là nghệ thuật chân chính, đều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính và nghệ thuật luôn phải vì nhân sinh không ch bó hẹp nghệ thuật vì nghệ thuật. Như Tố Hữu đã t ng tâm sự Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô dóng dậy Sóng đẩy thuyền lên Cả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con đường tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật s ra sao. Tuy không đem lại kết cục như mong đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua những lời văn của mình. Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn t và hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn
Câu 3 (4 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
 Rải rác biên cương mồ viễn xứ
 Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
 Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến – Quang Dũng)
tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
 tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
 (Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)
Cảm nhận về hai đoạn thơ trong Tây Tiến và Đàn ghi ta của Lor-ca.
 1. Vài nét về tác giả, tác phẩm (0.5) - Quang Dũng (1921-1988) là một người tài hoa. Thơ ông vừa hông nhiên, vừa tinh tế, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm đà chất lãng mạn. Rời xa đơn vị cũ cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh (Hà Đông cũ), Quang Dũng nhớ lại những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến nên viết lên bài thơ này. Bài thơ lúc đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, in trong tập Mây đầu ô (1986). - Thanh Thảo sinh năm 1946 tại Quảng Ngãi, thuộc thế hệ các nhà thơ thống Mĩ có thành tựu, có tiếng nói thơ riêng được công chúng chú ý. Nhà thơ được coi là một cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt. Ngưỡng mộ trước nhân cách và đau đớn cho số phận bất hạnh, cái chết đầy oan khuất, bi phẫn của Lor-ca, người nghệ sĩ tài hoa Tây Ban Nha, đã khiến Thanh Thảo viết bài thơ này. Tác phẩm được trích trong tập thơ Khối vuông ru-bích (1985).
2. Cảm nhận hai đoạn thơ (3.0)
a. Đoạn thơ trong “Tây Tiến”
- Nội dung: + Nhà thơ không che giấu hiện thực khốc liệt khi miêu tả về cái chết của người lính + Tây Tiến được khắc họa trang trọng, thiêng liêng đã tăng thêm sự thành kính, trân trọng với người đã khuất. (0.5) + Sau những đau thương, mất mát, đột ngột những câu thơ sau chuyển giọng, cách ngắt nhịp thay đổi, âm vang mạnh mẽ để phản ánh lí tưởng cao đẹp: vì nước quên mình, sẵn sàng hiến dâng tuổi tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Câu thơ diễn tả sự hi sinh thầm lặng mà cao cả, gây xúc động lớn lao trong lòng người, làm lay động cả thiên nhiên. (0.5)
- Nghệ thuật: Kết hợp hài hòa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc với âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt. Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng đã tạo nên tính sử thi đặc biệt cho đoạn thơ. (0.5) b. Đoạn thơ trong “Đàn ghi ta của Lor-ca”:
- Nội dung: + Tiếng ghi ta biến hình liên tục và rồi cuối cùng là “tròn bọt nước vỡ tan” như bàng hoàng, tức tưởi trước bi kịch của người nghệ sĩ Tây Ban Nha, “tiếng ghi ta ròng ròng” gợi ra cái chết, mất mát muôn đời không có gì thay thế, xót xa không thể xóa nhòa.(0.5) + Tiếng đàn cũng có nỗi đau của mình, cũng chịu sự bất hạnh như chính người sáng tạo ra nó - người nghệ sĩ yêu tự do và cái đẹp, người chiến sĩ kiên cường tranh đấu cho tự do, dân chủ. (0.5) - Nghệ thuật: Thể thơ tự do mang đầy màu sắc, thơ tượng trưng nên tính nhạc tràn đầy, ngôn từ thơ cô đúc nhưng giàu sức gợi, đậm tính ước lệ, logic liên kết bị xóa mờ tạo ra hiệu ứng lạ hóa, kích thích liên tưởng của người đọc, hình ảnh thơ đầy ám ảnh, gợi cảm và gây ấn tượng xúc động mạnh mẽ. Nhất là hình ảnh tiếng đàn ghi ta được miêu tả theo lối tượng trưng. (0.5)
3. So sánh hai đoạn thơ (0.5)
 a. Tương đồng: Cả hai đoạn thơ đều diễn tả về sự hi sinh, mất mát, về cái chết của hai hình tượng với cách nói giảm, nói tránh đầy nghệ thuật. Cách diễn đạt giàu cảm xúc, giàu sức gợi nhằm khẳng định vẻ đẹp mang tính lí tưởng của hình tượng nhân vật trữ tình.
b. Khác biệt
 - Tây Tiến: Đoạn thơ khắc họa sự hi sinh của người lính Tây Tiến đặt trong mối tương quan với vẻ đẹp của tinh thần chiến đấu quên mình, lí tưởng xả thân vì nước. Nhân vật trữ tình là một hình tượng tập thể mang vẻ đẹp hào hùng của thời đại. Thể thơ thất ngôn kết hợp với việc sử dụng nhiều từ Hán Việt làm tăng âm hưởng cổ kính với không khí trang trọng, thiêng liêng; giọng thơ trầm hùng, lắng đọng, tha thiết. Nhà thơ sử dụng bút pháp hiện thực và lãng mạn đan xen; hình ảnh thơ vừa chân thực vừa mang tính ước lệ tạo nên vẻ đẹp bi tráng cho khổ thơ.
 - Đàn ghi ta của Lor-ca: Thanh Thảo phục dựng lại thời khắc người nghệ sĩ Tây Ban Nha ngã xuống đặt trong mối tương quan với tiếng đàn ghi ta như một sự gắn kết, đan quyện giữa số phận và tiếng đàn; giữa sự hi sinh và tình cảm đối với đất nước, nghệ thuật. Nhân vật trữ tình là G. Lor-ca, người nghệ sĩ đa tài Tây Ban Nha với phẩm chất chiến sĩ anh hùng và tâm hồn bay bổng lãng mạn. Thể thơ tự do mang màu sắc tượng trưng, siêu thực nên hướng tới sự liên tưởng tự do; chú trọng tạo ra tính nhạc trong thơ. Hình ảnh biểu tượng đầy ám ảnh, gợi cảm và gây những ấn tượng xúc động, mạnh mẽ; tiếng đàn biến màu theo số phận và cảm xúc.
ĐỀ RA:
* Câu 1.
Truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao và truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân đều viết về tình cảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám 1945.
Anh (chị) hãy:
a. Phân tích những khám phá riêng của mỗi tác giả về số phận và cảnh ngộ của người nông dân trong từng tác phẩm.
b. Chỉ ra sự khác nhau trong cách kết thúc của hai thiên truyện. Giải thích vì sao có sự khác nhau ấy? Nêu ý nghĩa của mỗi cách kết thúc.
c. Phân tích nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm
Như có một sự trùng hợp kì lạ, năm 1941, truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao được NXB "Đời mới" ấn hành, thì cũng trong năm đó, trên tạp chí "Tiểu thuyết thứ bảy" những truyện ngắn của Kim Lân (“Đứa con người vợ lẽ”, “Cô Vịa",...) được đăng tải. Cả hai nhà văn đều sinh trưởng ở làng quê; người thì ở vùng đồng chiêm trũng Hà Nam, từ ông "giáo khổ trường tư" mà đến với con đường văn chương; người thì từ một khách "phong lưu đồng ruộng" vùng Quan họ Bắc Ninh mà cầm bút... Cả hai nhà văn đều có thành tựu về truyện ngắn trước và sau cách mạng, đều cùng tham gia kháng chiến chống Pháp, từ nhà văn hiện thực mà trở thành nhà văn cách mạng. Hai ông đều viết rất hay về đề tài nông dân. Truyện "Chí Phèo" và "Vợ nhặt" đã thể hiện văn tài và tính độc đáo của mỗi người mà chúng ta hằng hâm mộ.
Những khám phá riêng về số phận và cảnh ngộ người nông dân, cách kết thúc truyện, nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo là những điều mà hai nhà văn, hai tác phẩm đã đem đến cho ta nhiều thú vị.
1. Những khám phá riêng...
Nhân vật Chí Phèo và anh cu Tràng là hai điển hình về số phận và cảnh ngộ người nông dân trong xã hội cũ. Nam Cao và Kim Lân đều có những khám phá riêng rất đặc sắc.
a. Truyện "Chí Phèo" nói về cuộc đời đau khổ của một anh cố nông đầy máu và nước mắt. Không cha không mẹ, tứ cố vô thân. Đau khổ và tủi nhục. Một hoang thai bị vứt vào lò gạch cũ. Một thứ nhặt được "đùm trong cái váy đụp" rồi cho không. Một vật mua bán rẻ rúng từ tay người đàn bà goá mù qua tay ông phó cối. Một đứa bé cù bất cù bơ... Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho Bá Kiến; hắn bị vợ ba cụ Bá "lợi dụng" rồi bị tù oan. Cái mảnh đời ấy của Chí là số phận đen tối của những cố nông ngày xưa.
Sau 7, 8 năm đi tù, Chí đã bị cái nhà tù thực dân lưu manh hóa. Cái mặt cơng cơng, đôi mắt gườm gườm, cái đầu trọc lốc... Về làng mới được 3 ngày hắn dám chửi Bá Kiến, rạch mặt ăn vạ. Chỉ một câu mơn trớn, một bữa rượu, một đồng bạc, Bá Kiến đã làm cho hắn "vô cùng hả hê" vì đã dám độc lực chọi nhau với cha con Bá Kiến, lại còn "có họ" với Lý Cường. Chí Phèo cảm thấy "hắn cũng oai". Ba ngày sau, Chí cầm dao đến nhà Bá Kiến "xin đi ở tù". Chỉ một câu nói khích, Chí đến thẳng nhà đội Tảo để đòi món nợ 50 đồng cho cụ Bá. Lập "chiến công đầu", Chí được cụ Bá "thưởng" cho 5 đồng và 5 sào vườn ở bờ sông. Hắn tự đắc: "Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta".
Năm đó, Chí Phèo 27 hay 28 tuổi, hắn trở thành "anh đầy tớ chân tay mới" của Bá Kiến.
Số phận của Chí Phèo là số phận của một người nông dân lương thiện mà ngu dốt đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Hắn đã thế chân Binh Chức, để đâm thuê chém mướn. Hơn mười năm cuối đời, hai bàn tay Chí đã nhuốm đầy máu, đã "phá bao nhiêu cơ nghiệp", đã "đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc", đã "làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện". Bá Kiến đã dùng rượu và tiền để sai khiến hắn, biến hắn thành một con quỷ dữ làng Vũ Đại. Cái mặt chi chít vết sẹo dọc ngang, vàng vàng, xạm màu gio. Hắn "ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, ngủ trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận". Hắn không có tên trong sổ làng. Dân làng Vũ Đại ghê tởm hắn, xa lánh hắn. Năm đó Chí Phèo đã 40 hay ngoài 40? "Cuộc tình" 5 ngày đêm với thị Nở, bát cháo hành, sự săn sóc của thị đã làm cho Chí "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người", muốn cùng với thị Nở "làm thành một cặp rất xứng đôi". Bà cô thị Nở và cả thị Nở, và cả dân làng Vũ Đại đã lạnh lùng cự tuyệt hắn. Chí Phèo bị đẩy xuống hố thẳm bi kịch. Tuyệt vọng, hắn đâm chết Bá Kiến rồi tự sát! Một cảnh ngộ thật đáng sợ và đáng thương!
Năm Thọ "đầu bò" đi biệt thì có Binh Chức "ngỗ ngược" thế chân; Binh Chức chết thì lại nở ra Chí Phèo - "một con quỷ dữ"; Chí Phèo - bố tự sát thì thị Nở sẽ đem đến cho làng Vũ Đại một Chí Phèo - con. Đúng là "tre già măng mọc!"... Qua cuộc đời của Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức,... Nam Cao đã chỉ ra một hiện tượng đau lòng ở nông thôn Việt Nam trong thời Pháp thuộc: Một bộ phận nông dân nghèo khổ, lương thiện, ngu dốt đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh, cùng quẫn. Nhân vật Chí Phèo là hiện thân cho số phận và cảnh ngộ bi thảm của người nông dân trong xã hội cũ. Đó là khám phá riêng của Nam Cao.
b. Đọc truyện "Vợ nhặt" ta thấy ngòi bút nghệ thuật của Kim Lân có những khám phá riêng về số phận và cảnh ngộ của người nông dân qua chuyện anh cu Tràng "nhặt" vợ và nạn đói năm Ất Dậu. Thân phận Tràng rất đáng thương! Nhà nghèo, mồ côi bố, mẹ già "lọng khọng", xấu xí, dân ngụ cư, kéo xe bò thuê... không lấy nổi vợ.
Cảnh người chạy đói, đội chiếu bồng bế dắt díu nhau, "xanh xám như những bóng ma". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút", "tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa". Quạ bay vù lên trên nền trời như đám mây đen "gào lên từng hồi thê thiết". Xóm làng vẩn lên mùi gây của xác người. Người chết đói như ngả rạ. Người đàn bà mà Tràng "nhặt" được đã tiêu biểu cho số phận và cảnh ngộ thê thảm của người nông dân trong năm đói. Không rõ tên tuổi, gia đình, quê quán. Áo quần rách như tổ đỉa. Người "gầy sọp", "ngực lép", "mặt lưỡi cày xám xịt". Đói quá! Nghe Tràng nói đến "ăn" thì đôi mắt "trũng hoáy" của thị "tức thì sáng lên". Thị đã "cắm đầu" ăn một chặp 4 bát bánh đúc. Trước mắt thị là vực thẳm, là chết đói, thị đã đến với Tràng để được làm vợ, để may ra không bị chết đói. Cảnh mẹ chồng khóc khi nhận nàng dâu mới... Tối tân hôn của anh cu Tràng diễn ra trong "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình mới có người chết đói "nghe rõ ràng". Tràng "nhặt" vợ khi nuôi thân mình còn khó mà lại còn "đèo bòng". Bà cụ Tứ, cả xóm ngụ cư đều ngạc nhiên. Có người thương và lo cho Tràng giữa nạn đói, còn "rước cái của nợ đời về". Bữa cháo cám "đắng chát" của mẹ chồng đón nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế dồn dập dội lên. Đoàn người đói ầm ầm kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm... Cảnh chết đói, tình huống Tràng "nhặt" vợ. Người con gái chỉ ngang giá 4 bát bánh đúc, tiếng trống thúc thuế dội lên... đó là bức tranh thảm đạm của nông thôn ta cuối năm 1944, đầu năm 1945. Và đó cũng là số phận cảnh ngộ đau thương của người nông dân thuở ấy. Nhưng Tràng đã có vợ, dù là "vợ nhặt", thị đã có chồng, đã có mái ấm hạnh phúc gia đình. Bà cụ Tứ đã có nàng dâu mới, tuy còn lo, nhưng vẫn tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời...". Nhật còn thu thuế, nhưng Việt Minh đã về. Tràng, vợ và mẹ đã đổi đời, hàng triệu nông dân sẽ đổi đời, xóm thôn hồi sinh... Tất cả đã thể hiện tính độc đáo, tính nhân văn của những khám phá riêng của Kim Lân về số phận và cảnh ngộ người nông dân trong truyện "Vợ nhặt".
2. Về kết thúc của hai thiên truyện.
Nói đến kết thúc truyện là nói đến cấu trúc tác phẩm, thể hiện "tay nghề" của mỗi nhà văn.
a. Kết thúc truyện "Chí Phèo" và truyện "Vợ nhặt" hoàn toàn khác nhau, nhưng kết thúc nào cũng gây ấn tượng và rất hay. Truyện "Chí Phèo" có cấu trúc liên hoàn và đa diện. Đa diện ở chỗ có nhiều mẩu đời, nhiều mẩu chuyện nằm trong câu chuyện. Có Năm Thọ, Binh Chức, Tự Lãng, bà cô và Thị Nở, Chí Phèo và Bá Kiến v.v... Những mẩu đời lắp ghép, lồng vào nhau, làm nổi bật tên lưu manh Chí Phèo. Liên hoàn ở chi tiết đầu - cuối chuyện đều có hình ảnh cái lò gạch cũ. Anh thả ống lươn đã nhặt được đứa bé xám ngắt đùm trong cái váy đụp bèn "rước về"... Chí Phèo tự sát, bà cô Thị Nở "đay nghiến" thị. Thị cười và nói lảng, thị "thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại", sau khi thị "nhìn nhanh xuống bụng"... Cái lò gạch cũ là hình ảnh kết thúc truyện "Chí Phèo" và là "kết quả" của mối tình 5 ngày đêm của Chí Phèo - Thị Nở.
Truyện "Vợ nhặt" có cấu trúc tương phản. Tương phản giữa cảnh chết đói và lá cờ đỏ và đoàn người đói ầm ầm kéo đi phá kho thóc của Nhật; tương phản trong cuộc đời của Tràng trước và sau khi cu Tràng "nhặt" được vợ v.v... Kim Lân đã kết thúc truyện bằng cuộc đối thoại về "Việt Minh phải không?", rồi "trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới". Sự đổi đời và niềm vui hạnh phúc của vợ chồng Tràng, mẹ con Tràng đã có ánh sáng cách mạng chiếu rọi tới.
b. Có sự khác nhau về cách kết thúc truyện vì thứ nhất, là do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử. Truyện "Chí Phèo" viết trước cách mạng (1941) trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Còn truyện "Vợ nhặt" viết sau năm 1945 khi nhân dân ta được Cách mạng giải phóng, hàng triệu nông dân đã "rũ bùn đứng dậy sáng lòa" ("Đất nước" - Nguyễn Đình Thi).
Thứ hai là do khuynh hướng văn học, phương pháp sáng tác. "Chí Phèo" thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán nên nhà văn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến (cũng như "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố v.v...). Còn "Vợ nhặt" là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau năm 1945, tác giả có điều kiện, khả năng và sự cần thiết phải chỉ ra xu thế của thời đại, chiều hướng phát triển tích cực của đời sống xã hội.
Thứ ba là do tài năng, cá tính sáng tạo của văn nghệ sĩ. Kết thúc truyện "Chí Phèo" và truyện "Vợ nhặt" đã thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của Nam Cao, của Kim Lân.
c. Mỗi cách kết thúc truyện đều mang lại sắc thái và hiệu quả riêng của mỗi tác phẩm, góp phần làm nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Kết thúc truyện "Chí Phèo" với sự xuất hiện lại cái lò gạch cũ đã tạo nên nỗi ám ảnh ghê gớm về sự bế tắc của số phận và cảnh ngộ người nông dân, đồng thời làm nổi bật hiện tượng Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc truyện "Vợ nhặt" mở ra hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân. Đối lập với bữa cháo cám, tiếng trống đốc thuế dồn dập là hình ảnh lá cờ đỏ rất to bay phấp phới và đám người đói kéo đi âm ầm phá kho thóc của Nhật. Kim Lân đã nâng tầm vóc truyện "Vợ nhặt" lên ý nghĩa lịch sử của thời đại: Cách mạng đã giải phóng dân tộc, và chỉ có cách mạng mới có thể đem lại cơm no áo ấm, hạnh phúc, quyền sống cho người dân cày Việt Nam. Kết thúc truyện "Vợ nhặt" đã tạo nên âm điệu trữ tình lạc quan là vì thế!
3. Nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo.
Một trong những giá trị của hai truyện "Chí Phèo" và "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo. Tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm lại có nét đặc sắc riêng.
a. Truyện "Chí Phèo" đã lên án cái xã hội thực dân nửa phong kiến đã xô đẩy biết bao người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh, huỷ hoại cả thể xác lẫn linh hồn, cướp đi cả hình người lẫn tính người của họ.
Qua tiếng kêu thương của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất đi những mảnh chai trên mặt này?"..., Nam Cao đã gióng lên một tiếng chuông báo động khẩn thiết kêu cứu, và đòi quyền sống, quyền làm người cho những con người nghèo đói, đau khổ trong xã hội cũ.
Chí Phèo "thèm lương thiện" cũng là khát vọng được sống, được làm người lương thiện ngay cả khi đã bị lưu manh hóa. Nam Cao không chỉ xót thương những kẻ khốn cùng, khốn nạn mà còn biểu lộ niềm tin vào bản chất lương thiện của nhân dân lao động.
b. Qua truyện "Vợ nhặt", Kim Lân đã thể hiện niềm thương xót cho những người nghèo khổ bị chết đói, hoặc đang đứng trước vực thẳm của nạn đói, thân hình tiều tuỵ, nhân phẩm bị huỷ hoại, giá trị con người bị rẻ rúng đau thương. Tác giả căm thù lên án tội ác của Nhật - Pháp đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu, thảm hoạ thế kỉ đối với dân tộc ta.
Kim Lân qua chuyện "nhặt" vợ của anh cu Tràng đã khẳng định bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Trong nghèo khổ, hoạn nạn, họ đã dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau, để vượt qua mọi thử thách nặng nề. Nhà văn đã thể hiện lòng trân trọng trước khát vọng của nhân dân lao động về một mái ấm gia đình hạnh phúc, được nên vợ nên chồng, khi đứng trước hoạn nạn đau khổ vẫn không bao giờ mất hết niềm tin.
Nam Cao đã từng viết: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có..." (“Đời thừa”). Đọc truyện "Chí Phèo" và "Vợ nhặt", ta càng cảm thấy thấm thía ý kiến trên. Giá trị hiện thực và nhân đạo, tính độc đáo và sáng tạo trong khám phá số phận và cảnh ngộ người nông dân trong xã hội cũ, nghệ thuật cấu trúc và kết thúc truyện, v.v... là những nhân tố tạo nên sức sống bền vững của truyện "Chí Phèo", truyện "Vợ nhặt", nâng hai tác phẩm này lên tầm vóc những kiệt tác văn chương của nền văn xuôi Việt Nam trong thế kỷ 20.
Cảm nhận về câu nói của bà cô Thị Nở trong Chí Phèo và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
Trong tác phẩm Chí Phèo, bà cô Thị Nở nói: "đàn ông đã chết hết hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng ko cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Trong tác phẩm "Vợ nhặt", bà cụ Tứ nói: "thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Cảm nhận của anh chị về hai câu nói của hai nhân vật này.

Bài làm:

Tác phẩm văn học cũng như một con quay hồi chuyển mà mỗi mặt,mỗi bề của nó đều tác động vào ta những giá trị tinh thần cao đẹp. Một câu thơ hay làm cho ta thấy cuộc đời thêm ý nghĩa, một nội dung hay khiến ta xuýt xoa, một đoạn văn tả cảnh ấn tượng khiến tâm hồn ta bay bổng lâng lâng,có khi chỉ một câu nói của nhân vật cũng làm ta day dứt mãi ko nguôi. Chẳng hiểu sao mỗi lần gấp trang sách lại tôi cứ nhớ mãi cái bộ mặt của bà cô Thị Nở nói với cháu mình: "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng chồng ko cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ" lại càng không thể quên khuôn mặt già nua khắc khổ,đầy lo toan, đầy nước mắt nhưng lại hồn hậu , dịu dàng trong tình yêu thương đồng loại của bà cụ Tứ "thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".

Nam Cao viết Chí Phèo năm 1941 và nhanh chóng trở thành đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán. CP là nhân trung tâm của tác phẩm với một cuộc đời cùng hơn cả dân cùng.Bị cả xã hội cự tuyệt , quăng quật cho ra rìa, sống một cuộc sống vật vờ ko đáng sống cho đến một ngày kia có một người đàn bà đã bước vào cuộc đời của hắn.Hắn vẫn quen chiếm đoạt miếng ăn và người đàn bà kia tất nhiên cũng là do hắn chiếm đoạt mà có được.ấy thế nhưng'chúng lại rất có duyên với nhau như trời sinh một cặp' và chắc chắn chúng sẽ lấy nhau nếu như ko có một ngày kia, cái "con khọm già"(bà cô thị nở) ko buông lời trách mắng cháu bà: "đàn ông.........ăn vạ". Ô hay, cái thằng ko cha thì có sao đâu nhỉ? Một sao hắn lại phải làm nghề rạch mặt ăn vạ cơ chứ? Câu chửi ngoa ngoắt ấy khiến ta lật ngược chiếc đồng hồ cát để quay về quá khứ tìm hiểu về con người ấy.

Và đúng CP là thằng ko cha,ko mẹ.cuộc đời hắn tưởng như đã chết bên cái lò gạch bỏ hoang ấy rồi nếu như ko gặp được những con người tốt bụng làng Vũ đại đem về cưu mang,nuôi dưỡng.cái tuổi thơ bất hạnh lang thang đi ở cho nhà người ấy càng làm cho bản tính mồ côi càng thêm hiền lành như đất.Để rồi ít lâu sau đó người ta bỗng đâm hoảng trước thái độ hung hãn mất hết nhân tính của chí khi mãn hạn tù về.chí đội lốt quỷ dữ,tác oai tác quái cho dân làng'làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện'.Hắn chỉ biết rượu và máu-hai thứ ko thể thiếu đối với một con quỷ.dân làng có thể khóc.quỷ chỉ có thể cười trên nổi đau của người khác.Và cứ thế hắn say-say rượu và say tội ác.

NC đã để hắn vùng vẫy khá lâu trong sự tuyệt vọng ,trong cô đơn của quỷ khi cả làng Vũ đại ai cũng'tránh mặt mỗi lần hắn qua'.Cô đơn đến nỗi mà ngay cả tiếng chửi của mình mà cũng chẳng có tiếng người đáp lại,chỉ tiếng chó cắn là có thật. Và NC lạnh lùng đến thế là cùng.nhưng có ai đó đã nói rằng'văn Nc như văn Lỗ Tấn, cái bình thuỷ ấy,bên ngoài lạnh,bên trong thì .nóng '.người đọc cũng chẳng phải chờ lâu, bởi Nc vốn là một nhà nhân đạo chủ nghĩa, "thiên sứ"cứu rỗi linh hồn chí mà ông phái đến chính là Thị Nở.phải nói thị là thiên thần mới đúng,bởi với một kẻ như CP khi đã cạn tình yêu thương, thì chỉ cần một chút yêu thương chạm khẽ cũng đủ để hắn thức tỉnh.tiếc rằng, cái xã hội lạnh lùng ấy đã rủ bỏ hắn,cái xh đã đẩy hắn đến hố thẳm đường cùng ấy đã ko maỷ may bố thí cho hắn dù chỉ là một chút tình yêu thương.thì Thị Nở chính là thiên thần của hắn.

Cuộc tình ngắn ngủi của một kẻ cô đơn (Thị Nở) và một con quỷ dữ đã xích lại gần nhau tình người. Hai con người khốn khổ bị ném về hai phía tận cùng khổ đau, oái oăm thay lại chính là hai kẻ thắp sáng lên niềm hi vọng trong nhau .chí đã hồi sinh sau cơn say dài vô tận,chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình có mặt trên đời thì bỗng một ban mai thức dậy cảm thấy'miệng đắng, lòng mơ hồ buồn'.lại nghe được những thanh âm vang động của cuộc sống thường nhật, từng tiếng,từng tiếng một gõ nhịp vào tâm hồn hắn.tiếng 'chim hót ngoài kia vui vẻ quá,tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá tiếng mấy bà đi chợ về'. Những âm thanh ấy thật bình dị, thật đời thường biết bao.vậy mà hôm nay hắn mới nghe được.nó tựa hồ như dòng suối mát chảy vào thớ đất khô hạn của tâm hồn cằn cỗi. Như vùng đất sỏi đá, cằn khô bất chợt gặp mưa rào. Bâý lâu nay, vùng đất tâm hồn hắn chỉ uống vào bằng thứ 'nước' máu và nuớc mắt của người dân lương thiện thì hôm nay thanh âm cuộc sống chính là thứ nước thánh diệu kỳ gội rửa tội lỗi và thanh lộc tâm hồn cho hắn, đánh thức trong hắn vùng kí ức đã chết, hồi sinh cả vùng tâm hồn trong hiện tại và thức dậy cả một viễn cảnh đói rét, ốm đau và cô độc phía trước.

Còn nhớ trong tiểu thuyết 'nhà thờ đức bà Paris 'của nhà văn V.Huygo ,có đoạn Esméralda bị Quasimodo bắt cóc nhưng may mắn nàng được giải cứu .Còn Quasimodo thì bị nhốt vào lồng bêu trước công chúng.vốn nhân từ,Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc và đã đem nước cho Quasimodo uống trông lúc hắn bị xử phạt trên đài bêu vì tội bắt cóc và gây rối loạn ban đêm.tâm hồn hoang dã của Quasimodo từ lâu ko quen giao tiếp với thế giới con người,chỉ biết cha nuôi là phó giám mục Frollo, người đã đem hắn về nuôi khi hắn còn là một quái thai dị dạng bị bỏ trước cửa nhà thờ.vẻ đẹp và tấm lòng của Esméralda đã làm thức tỉnh trái tim hoen gỉ của hắn.Quasimodo bắt đầu yêu,một tình yêu bất diệt ko cần đền đáp.thì nay trong CP ,bát cháo hành của thị cũng đã làm chí được đánh thức,đánh thức từ khứu giác,đến vị giáo,đến cả xúc giác và cuối cùng là thức tỉnh cả tâm hồn,nhân phẩm .bát cháo của thị như liều thuốc giải độc đã tâỷ ố đi men rượu,góp phần tỉnh rượu và tỉnh ngộ.giờ đây hắn là người,con người với ý nghĩa đẹp nhất.nhà văn đã để cho thị nở thốt lên'ôi chao sao mà hắn hiền. Ai bảo đó là cái thằng CP chỉ biết rạch mặt ăn vạ'.Thị đúng là cơn gió mát lành thổi vào cuộc đời của Chí,là ngọn lửa ấm sưởi ấm quãng đời nguội lạnh của hắn.gió thổi đi tro tàn ,bụi bặm của một cuộc đời đầy những khổ đau,lửa sẽ đốt bỏ lớp vỏ quỷ dữ,hong khô bao ngày cô lẻ với tấm thân mòn uá hoang tàn .thị đã khơi dậy trong.chí khao khát được làm người,khao khát được trở về cái xh bằng phẳng,được làm hòa với mọi người,khao khát tình đồng loại.tại sao bà cô thị nở lại ko?

Ở đây NC muốn lên án cái định kiến hà khắc của xh, định kiến cổ hủ, tàn khốc, là sợi dây thòng lọng vô hình,giết chết bao người. Trong tác phẩm 'thời thơ ấu' của Nguyên hồng,có đoạn chú bé Hồng vì thương mẹ mà chú bé căm ghét những hủ tục phong kiến đã đọa đày mẹ:'giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thuỷ tinh,đầu mâủ gỗ,tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn,mà nhai,mà nghiền cho nát vụn mới thôi'.Như vậy,cổ tục,định kiến là những thứ tồn tại ngàn đời trong xh,nó giống như ung nhọt khó cắt bỏ.Và nó chính là cánh cửa ngăn cách con đường trở lại làm người của Chí.

Chí lại tìm đến rượu nhưng rượu ko phải bh cũng làm cho người ta say.Một khi rượu ko đủ sức làm lu mờ lý trí của con người thì nó sẽ quay ngược trở lại làm thức tỉnh lý trí của con người.CP bây giờ là thế.càng uống hắn càng tỉnh.hay nói đúng ,rượu làm hắn say,hơi cháo hành làm hắn tỉnh bởi hắn thấy'thoang thoảng hơi cháo hành'.rồi hắn bưng mặt khóc.quỷ có biết khóc bao giờ.vậy thì nước mắt là dấu hiệu của con người.Hắn là người thật rồi.

Định kiến tàn nhẫn của bà cô cũng là định kiến hà khắc của xh cũ.lời nói của thị nở như cứa vào tim gan của hắn một vết đau.nhưng vết đau đủ nhắc cho hắn một sự trở -sự trở về của thiên lương,của nhân phẩm.Hắn chợt nhận ra tất cả :nổi đau và thân phận;bất hạnh và trắng tay.chợt nhận ra nổi khổ của mình,một con người sống giữa loài người nhưng ko được công nhận là con người.vậy nên tất cả lời của bà cô mà thị nở trút lên hắn trở thành nỗi nhục nhã và cũng từ đó hắn chợt nhận ra thân phận.sự tỉnh rượu đánh thức cả sự tỉnh ngộ để nhận ra cá̉ cuộc đời dài dằng dặc trước kia đã bán mình cho quỷ dữ.Và hắn đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện,trên một vũng máu tươi mà sự cảm thông chỉ là nước mắt của bạn đọc nhỏ xuống hai dòng lệ vì một kiếp người phù sinh giữa cõi nhân gian.

Tuy nhiên,cần hiểu rằng lời nói của bà cô ko phải là tất cả để dẫn đến cái kết cục bi thảm của CP. lời nói ấy chỉ là công đoạn cuối cho một kết thúc mà cái kết dường như đã được báo trước.vậy nên,lời nói ấy vừa vô tình vừa ko vô tình,vừa đáng trách lại vừa ko đáng trách.

Trong truyện ngắn 'vợ nhặt' của KL ,nhà văn vốn quen với thuần hậu phong thủy.đề tài nông thôn thật quen thuộc trong trang viết của ông.nhưng đề tài năm đói và những con người nhân hậu bao dung với nhau cu hướng đến tương lai là mới.dễ gì hai mẹ con nhà tràng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết lại có thể nhận thêm một miệng ăn vào lúc này,lại sẵn lòng cưu mang,lại sẵn lòng đi đến xây dựng hạnh phúc, đám cưới trong đám ma, liệu có thật ko. nhưng có lẽ việc một người mẹ âm thầm cố giấu một dòng nước mắt,cố nói với các con: ''thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng" là một điều rất thật, có thật.

Câu nói ấy làm chúng ta nhận ra đằng sau đó là cả một tấn bi hài,một tình huống truyện dở khóc dở cười của một phu xe tên tràng và một cô ả lang thang.Một lần đẩy xe,một lần được mời ăn của người đàn bà đã xe duyên cho một mối tình mà cái đói chính là nguyên nhân dẫn đến tất cả.tràng thì cần hp.người đàn bà thì cần miếng ăn.thành ra,hai cành củi khô ấy đã trôi dạt vào nhau, mắc cạn vào cuộc đời nhau, rồi tất cả đưa nhau đến chỗ khó xử đến tột cùng. Xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ - mẹ Tràng ngạc nhiên,ngay cả Tràng là người trong cuộc cũng càng ngạc nhiên hơn nữa.

Tràng ngạc nhiên vì hắn chỉ' tầm phơ tầm phào có đôi ba bận thế mà thành vợ thành chồng'.xóm ngụ cư ngạc nhiên vì'giời đất này còn rước cái của nợ ấy về'.bà cụ tứ ngạc nhiên vì nhiều lẽ:con bà xấu,ế vợ,nhà lại nghèo...nó có vợ quả là điều ko tưởng vào lúc này.Vậy nên,bà 'đứng sững lại','phấp phỏng bước theo con vào trong nhà','hấp háy cặp mất cho đỡ nhòen'...Bấy nhiêu ngôn ngữ cũng đủ để diễn tả sự rối bời trong tâm hồn người mẹ ấy.bà đã mất đi sự nhạy cảm vốn có của người mẹ.vì con cái lớn khôn,đến tuổi dựng vợ gả chồng,mẹ phải đủ nhạy cảm để hiểu điều đó.nhưng ở đây,cái đói đã cướp mất đi sự nhạy cảm ở mẹ.Vậy nên,hình ảnh người mẹ trở nên tội nghiệp hơn bao giờ hết.

Nhưng khi hiểu ra cơ sự, người mẹ ấy đã nhẹ nhàng, âu yêḿ 'ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng'. Cái 'mừng lòng' của người mẹ chứa đựng trong đó là cả niềm vui,nổi buồn,niềm xót tủi thân tủi phận vì'làm mẹ nhưng không lo nổi cho con'. Câu nơi ấy cũng đã làm nổi bật hình ảnh người mẹ nhân từ,hồn hậu,sẵn lòng cưu mang những đồng loại đói khát hơn mình.chính lời nói của mẹ đã như vòng tay rộng mở để ôm người đàn bà xác xơ ấy từ cõi chết trở về với cõi sống,từ bất hạnh trở về với yêu thương.mẹ đa mở ra cho người con gái ấy con đường sống đã thổi vào cuộc đời tăm tối ấy một nguồn sáng ấm áp,yêu thương.thị đã sống lại lần thứ hai từ chính câu nói ấy của bà cụ tứ.Và cũng chính lời yêu thương chân thành mà giản dị ấy đã mang lại cho thiên truyện ngắn này một kết thúc đầy ánh sáng.truyện mở ra đầy tối tăm của một chiều tàn,bóng tối phủ con đường,ngõ nhỏ,xác người chết,tiếng khóc,bầy quạ đói nhưng kết thúc bằng một buổi sáng ban mai nắng vàng rực rỡ.Ở đó.tiếng chổi tre quét sạt trên mặt đất nghe thương đến lạ.anh tràng dậy trễ và cảm động nhìn mẹ và vợ quét tước nhà cửa.bà cụ tứ với khuôn 'rạng rỡ hẳn lên', người vợ trông chẳng còn cái vẻ 'chao chát chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ở ngoài cổng chợ tỉnh'.

Sự thay đổi da thịt ấy đa nói lên một điều thật ý nghĩa:tình yêu thương chính là ngọn nêń lung linh thắp sáng và xua tan mọi tâm hồn cằn cỗi và khổ hạnh,mang đến nguồn hp ấm áp và sức sống mới cho con người. Câu nói của bà cụ tứ thật giản dị mà sâu sắc là cánh cửa mở ra cuộc đời mới và cũng là cánh cửa để mở ra cho tác phẩm một trang sách môi khi tràng nghĩ về đoàn người đói và lá cờ đỏ.

KL và NC đã rất tài tình khi xây dựng những mẫu đối thoại tinh tế để tạo nên những chi tiết nghệ thuật đắt giá cho tác phẩm."Một chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn",quả đúng vậy" một gợi mà trăm suy",chỉ một câu nói trong tác phẩm thôi nhưng có thể mở ra chiều sâu chưa nói hết của những ý tưởng sáng.lời nói của bà cô thị nở khiến ta hình dung cả cuộc đời dài dằng dặc của CP,vừa giận lại vừa thương hắn vừa lại căm phẫn những cổ tục của xh cũ bởi những định kiến khắt khe.Câu nói ấy,suy cho cùng, vừa để ta gợi nhớ lại CP nhưng đồng thời cũng là cái kết cho CP trong xh dưng̉ dưng,lạnh lùng ấy.còn 'vợ nhặt' lại ấm áp biết bao tấm lòng bà mẹ nông dân nghèo khổ,việc con cái dựng vợ gả chồng quả là một'cú sốc'lớn trong cuộc đời bà vì nghèo khổ quá đâu dám mơ một ngày con cái có thể yên bề gia thất. việc bà cất lời đồng ý cho đôi bạn trẻ yên bề gia thất trong hoàn cảnh lúc này là mẹ bao dung,mẹ yêu thương và mẹ nhân hậu.

Nếu đem so với nhau: KL đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc khi ngợi ca tấm lòng người mẹ nông dân nghèo khổ và ngợi ca hết lòng tấm lòng yêu thương,đùm bọc của con người VN trong hoàn cảnh khốn cùng.NC cũng thông qua câu nói ấy của bà cô thị nở mà lên án định kiến hà khắc, lên án xh người thịt đã đẩy người nông dân vào hoàn cảnh khốn cùng.nhà văn lên tiếng bênh vực quyền sống cho CP kêu gọi đổi thay xh ấy để cứu lấy con người.

Tóm lại, hai câu nói của hai nhân vật trong tác phẩm'CP' và 'vợ nhặt' là hai câu nói đã góp phần ko nhỏ trong việc thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.cũng qua đó góp phần thể hiện tài năng và cá tính nghệ thuật của các tác giả.
Cảm nhận về hình tượng lá ngón trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.


Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam. Có lẽ do sự trải nghiệm và dồi dào vốn sống mà ông có thể viết nên những trang văn hay dù chỉ mới học hết bậc tiểu học. Nhưng tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê. Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng bào Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó, hình tượng “lá ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.

Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuạt có vị trí nghệ thuật vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ - hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.

Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị - người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa về...có một cô con gái. Lúc nào cũng vậy,...mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của Tô Hoài: Đi thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu một thực tại không tươi sáng. Sự hiện diện song song giưx “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngầm ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị - một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở hhơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhụcđến tột cùng. Mị sôngs không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đoc cũng chính là nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.

Ta có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên.

Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra. 

Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và... cô sẽ tự do tâm hồn, và ... lá ngón một lần nữa xuất hiện. 

Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn. 

Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễ ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.

Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!
Đề bài:
Sau khi nhận bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
- Hay là mình sang đây với tớ một nhà cho vui.
(Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11)
Trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của từng câu nói trên.
DÀN Ý:
1. Giới thiệu chung: (0,5 đ)
- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” là chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm. (0,25 đ)
- Kim Lân là nhà văn thành công đặc biệt khi viết về người nông dân và cuộc sống nông thôn trong nền VHVN hiện đại. Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xúc động nhất của ông. Chi tiết “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của truyện. (0,25 đ)
2. Về chi tiết: “Hay là mình sang đây với tớ một nhà cho vui” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. (1,0 đ)
- Về nội dung: (0,75 đ)
+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỉ dữ Chí Phèo có sự thay đổi hẳn cả về tâm và sinh lí.
+ Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức ở Chí khát vọng được sống cuộc sống của một người bình thường “Hắn thèm lương thiện”. Cử chỉ mộc mạ của thị gieo vào lòng Chí niềm hi vọng: thị sẽ là người mở đường dẫn Chí về với “cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”
+ Câu nói “Hay là mình sang đây với tớ một nhà cho vui” cho thấy khát vọng hạnh phúc, được yêu thương vẫn ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo sau bao nhiêu năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Chí không dám nói một lời “cầu hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọ cách nói lấp lửng thể hiện sự âu lo, phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh.
- Về nghệ thuật (0,25 đ)
+ Cách diễn tả: là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc hoạ sâu sắc nét tính cách tâm lí và cảnh ngộ của nhân vật
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
3. Về chi tiết: “ Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” trong tp Vợ nhặt của Kim Lân (1 ,0 đ)
- Về nội dung: (0,75 đ)
+ Tràng là một chàng trai nông thôn nghèo, ế vợ
+ Trước tình cảnh của người đàn bà bị cái đói xô đẩy, Tràng đã đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau đó, Tràng nói một câu với hình thức như một câu nói đùa: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Câu nói đùa nhưng lại thể hiện niềm khao khát hạnh phúc có thật, mãnh liệt, cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân nghèo ấy mà ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể dập tắt.
+ Lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh phúc trong Tràng được thắp lên từ câu nói đùa ấy lại thật sự bùng cháy. Tràng chân trọng hạnh phúc của mình cũng như bằng tất cả những gì có thể, anh biến cuộc hôn nhân với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc.
- Về nghệ thuật: (0,25 đ)
+ Là một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm lí của nhân vật, thể hiện chủ để tư tưởng của tác phẩm.
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Kim Lân.
4. So sánh (1,0 đ)
- Sự tương đồng: (0,5 đ)
+ Đó là những câu nói đặc biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc đời các nhân vật và có sức tác động diệu kì, tạo nên những khoảnh khắc hạnh phúc ngọt ngào cho những số phận nghèo khổ, bất hạnh.
+ Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ của hai tác phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát vọng hạnh phúc ở những con người tưởng như đã hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đời.
- Sự khác biệt: (0,5 đ)
+ Ở Chí Phèo, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất người ẩn sâu trong con quỉ dữ Chí Phèo, sau khi cảm nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở thị Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền lành, chân chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con quỉ dữ Chí Phèo.
+ Ở Vợ Nhặt, chi tiết khẳng định sức mạnh của tình người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình yêu thương chiến thắng sự đe doạ của nạn đói và cái chết.
5. Đánh giá (0,5 đ)
Hai chi tiết nhỏ đã thể hiện khả năng thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn đối với vẻ đẹp và sức sống tâm hồn người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Đó là sự tiếp nối xuất sắc của Nam Cao và Kim Lân với mạch nguồn nhân đạo của Văn học Việt Nam.
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
Hướng dẫn cách làm :
Mở bài :
Giới thiệu Nam Cao , truyện Chí Phèo và đoạn kết truyện
Giới thiệu Kim Lân, Vợ nhặt và đoạn kết truyện
Mở bài tham khảo :

Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thường khai thác một khía cạnh phổ biến đó là tình cảnh bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám .Trong số những trang văn cảm động về người nông dân phải kể đến hai truyện ngắn nổi bật : Chí Phèo của nhà văn Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân .Mỗi truyện đều có một cách kết thúc riêng ,song mỗi cách kết thúc đều mang những giá trị riêng. Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…Truyện ngắn Vợ nhặt kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới
Thân bài :
Vài nét về tác giả, tác phẩm
– Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực xuất sắc, một bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn; sáng tác mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Chí Phèo là đỉnh cao trong sự nghiệp của Nam Cao; truyện có kết thúc độc đáo, tô đậm được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
– Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh. Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân; kết thúc truyện đặc sắc, khắc sâu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
2. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Chí Phèo
Khái quát nội dung tác phẩm Chí Phèo ( ngắn gọn )
Tóm tắt cuộc đời đầy bi kịch của người nông dân Chí Phèo ( ngắn gọn )
Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh Cái lò gạch bỏ hoang
+ “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân.
+ Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
+ Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
+ Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
3. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt
Khái quát nội dung tác phẩm “Vợ nhặt”( ngắn gọn )
Tóm tắt về cuộc đời nhân vật Tràng.( ngắn gọn )
Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh lá cờ bay phấp phới:
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.
4. So sánh sự tương đồng và khác biệt của hai kết thúc truyện
– Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.
– Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.
5. Lí giải :
Có sự khác nhau như trên là vì:
– Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Nam Cao viết “Chí Phèo” năm 1942 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Kim Lân viết “Vợ nhặt” sau hòa bình lặp lại 1954 khi dân tộc ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng CM giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử.
– Do khuynh hướng văn học và phương pháp sáng tác. “Chí Phèo”: khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao phản ánh hiện thực đen tối nhằm phê phán xã hội. Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. “Vợ nhặt”: khuynh hướng hiện thực cách mạng nên Kim Lân có thể nhìn thấy bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước cách mạng
– Do tài năng và tính cách sáng tạo của từng nhà văn. Cùng yêu thương tin tưởng con người nhưng Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Kim Lân lạị cho rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người nông dân vẫn có thể vượt lên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng.
Kết bài : Đánh giá chung về hai tác phẩm và tài năng nghệ thuật của các nhà văn
Đề 5: Trong tác phẩm Chí Phèo ( Nam Cao), sau khi đến với thị Nở; sáng mai ra, Chí Phèo nghe thấy: “ Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!” (Trích Chí Phèo của Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr. 149)
Trong tác phầm Vợ nhặt ( Kim Lân), sau khi có vợ, sáng hôm sau, Tràng:
“ ... Bỗng vừa chợt nhận ra, xụng quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. […]. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.”
(Trích Vợ nhặt cùa Kim Lân,Ngữ văn 12,Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr. 30)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của hai nhân vật qua hai đoạn văn trên.
I. Giới thiệu chung: 0,5
- Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo. Sáng tác trước cách mạng của ông xoay quanh hai đề tài chính là nông dân nghèo và trí thức nghèo. Truyện ngắn “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của ông.
- Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ông là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa. Thế giới nghệ thuật của Kim Lân chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, in trong tập “Con chó xấu xí”
II. Phân tích: 3,0
1. Đoạn văn trong “Chí Phèo” – Nam Cao: 1,0
- Tình huống:
+ Sau cuộc gặp gỡ tình cờ của Chí Phèo với thị Nở, Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh rượu. Chí đã tỉnh rượu sau một cơn say rất dài.
+ Trước đó Chí đã là tay sai cho kẻ thống trị nham hiểm – Bá Kiến. Bá Kiến lợi dụng Chí Phèo để trừ khử những phe cánh đối nghịch, gây ra bao tội ác với dân làng mà yếu tố hỗ trợ cho Chí là rượu. Vì thế đời Chí là một cơn say dài mênh mông. Cơn say đã lấy mất của hắn già nửa cuộc đời, đẩy hắn vào kiếp sống thú vật tăm tối.
- Tâm trạng Chí khi tỉnh rượu:
+ Tỉnh rượu, ý thức bắt đầu trở về, Chí thấy lòng mơ hồ buồn, nỗi buồn đã đến nhưng còn mơ hồ chưa rõ rệt.
+ Khi ý thức đã trở về, Chí cảm nhận được sự tồn tại của mình, biết đến không gian, thời gian. Đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh đời thường của cuộc sống bình dị: “ Tiếng chim hót…, tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…”.
->Những âm thanh ấy đánh thức trong Chí cái ước mơ giản dị của một thời lương thiện. Hắn đã từng ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nhưng chính bàn tay tội ác của những kẻ thống trị đã phá nát những giấc mơ, đã hủy hoại tan hoang cả một đời lương thiện. phút lóe sáng trong tâm hồn đã kéo nhân vật trở về thực tại, nhận ra hiện thực đáng buồn: “Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!”. Lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh rượu cũng là lần đầu tiên hắn đối diện với cuộc đời của mình.
2. Đoạn văn trong “Vợ nhặt” – Kim Lân: 1,0
- Tình huống:
+ Tràng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có vợ và nạn đói khủng khiếp lại đem đến cơ may để Tràng có gia đình. Hạnh phúc đến với người nông dân nghèo khổ ấy quá bất ngờ, thấy mình như vừa từ giấc mơ đi ra.
- Tâm trạng của Tràng vào buổi sáng đầu tiên khi có gia đình:
+ Tràng trông thấy những thay đổi khác lạ ở ngôi nhà của mình, thay đổi ở người mẹ và cả người vợ. Nạn đói khủng khiếp khiến Tràng quên mất những viêc anh ta phải làm và khiến cuộc sống của anh trở nên tạm bợ, ngôi nhà trở nên trống trải. Nay Tràng đã có một gia đình và tổ ấm. Mẹ và vợ Tràng đang dọn dẹp, sửa sang lại ngôi nhà. Với người khác, cảnh tượng ấy không có gì đặc biệt nhưng với Tràng đó là hình ảnh của cuộc sống gia đình, là thứu là anh ta tưởng chẳng bao giờ có được.
+ Từ khi có gia đình là từ khi Tràng được sống trong những cảm xúc rất con người, ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình. Hắn nghĩ đến tương lai sáng sủa, không còn bế tắc.
3. Điểm tương đồng và khác biệt: 1,0
a. Điểm tương đồng:
Cả hai đều nói về những chuyển biến mới mẻ của con người khi đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời mà điều làm nên sự thay đổi kì diệu ấy đó là sự quan tâm, tình yêu thương, chăm sóc, sự sẻ chia của con người với con người.
b. Nét khác biệt:
- Nam Cao phát hiện ra những đốm sáng nhân bản còn le lói trong con quỷ dữ Chí Phèo. Tuy nhiên Chí Phèo vẫn rơi vào tình cảnh bế tắc, không lối thoát.
- Kim Lân đã phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn con người lao động, dù ở bờ vực của cái chết nhưng họ vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn muốn sống cuộc đời của một con người. Ông mở cho nhân vật của mình một tương lai sáng lạng, đầy hi vọng. Qua đó, Kim Lân gửi vào trong đoạn văn của mình tiếng nói mang ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc: Hạnh phúc đã cứu con người thoát khỏi cái chết và có khả năng đưa con người thoát khỏi tình trạng phi nhân tính.
III. Đánh giá: 0,5
- Hai đoạn văn đều cho thấy cái nhìn đầy tính nhân đạo của người viết. Qua đây thấy được tài năng, tấm lòng của hai tác giả.

Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài:
“Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước…..
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.”
BÀI LÀM
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị, một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ.
Đoạn văn chủ yếu nhằm diễn tả tâm trạng của Mị trong một đêm sau bữa cơm Tết cúng ma ở nhà thống lý Pá Tra. Một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Và chủ yếu là thể hiện nội tâm nhân vật, ta thấy ít lời thoại. Mị không nói câu nào. Chỉ một câu hỏi duy nhất của A Sử: “Mày muốn đi chơi à?f MỊ không nổi. A Sử cũng không hỏi thêm nữa”. Tất cả chìm đi trong im lặng, lầm lũi. Mị như chiếc bóng câm lặng, vật vờ trong bóng đêm nhà A Sử .Đọc đoạn văn, người đọc thấy thời khắc trôi đi với Mi thực chậm chạp và nặng nổ làm sao. Trong bóng tối nặng nề, mòn mỏi ấy, hành động của MỊ cũng rất ít. Tô Hoài chỉ để vài dòng miêu tả vài ba hành động “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát… MỊ đứng dậy… từ từ bước vào buồng. ..Mị quấn lại tóc… Với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách…”, Chỉ có thế, phần lớn đoạn văn còn lại là những dòng nội tâm đang trỗi dậy, tuôn trào lòng MỊ. Cũng vì để thể hiện nội tâm nhân vật rất đặc biệt này, không có cách nào hơn là trần thuật theo con mắt của chính người trong cuộc, con mắt và tấm lòng của Mi Một người con gái tràn đầy sức sống nhưng bị đè nén đầy đoạ trong đau khổ và tủi nhục. Một số phận bi thảm. Và chính vì giàu sức sống nên bị kịch càng trở nên sâu đậm. Giá như tâm hồn Mi đã khô cạn, đã chết hẳn; giá như Mị quên hết được những kỉ niệm ngày trước… thì chắc MỊ sẽ bớt đi được nhiều đau khổ’, dằn vặt. Tô Hoài đã rất thành công trong việc diễn tả bi kịch tinh thần này. Rõ ràng là ban đầu Mị chỉ hành động theo thói quen một cách vô thức “Ngày Tết Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say’.
“Cũng uống” tức là chỉ làm theo người xung quanh. Ngày tết người ta uống, Mị cũng uống. Tuy nhiên “uống ực từng bát”, là hành vi bước đầu thể hiện một cái gì khác thường trong tâm lý người con gái rồi đây. Bi kịch bắt đầu nổi lên khi ý thức Mị bắt đầu hoạt động thật sự. Mở đầu là nỗi nhớ “Lòng Mi thỉ dang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Rồi MỊ nhớ lại những ngày xuân trước, Mị thổi sáo giỏi ‘Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm dã thổi sáo đi theo Mị”… Chính vì sống quá sâu sắc với quá khứ mà Mị quên tất cả hiện tại ”Rượu đã tan lúc nào. Người về, kẻ đi chơi đã văn cả. Mị không biết”. Cũng chính vì sống lại với quá khứ, quên hiện tại mà “Đá từ này, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước’ và cô thấy mình còn trẻ “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Giá như đừng nhớ lại, không nhớ lại được những ngày ấy thì Mị không rơi vào tâm trạng ”Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nưóc mát ứa ra”. Đấy chính là tâm trạng khi Mị bừng tỉnh lại sống trong hiện tại. Quá khứ và hiện tại dằng xé trong tâm hốn Mị. Hiện tại tăm tối, ngột ngạt “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vản lơ lửng bay ngoài dường” thức dậy quá khứ đẹp đẽ đang náo nức trong lòng Mị. Để làm nổi bật sức sống nội tâm vẫn mãnh liệt, nồng nàn trong tâm hổn Mị, như trên đã nói (đoạn văn ít hành động và chỉ duy nhất có một câu hỏi của A Sử mà Mị không trả lời), Tô Hoài đã tạo ra một cô Mị bên trong đang rạo rực, náo nức và quằn quại niềm ham sống và một cô Mị bên ngoài như cái bóng lầm lũi, như đã chết. Bên ngoài một cô Mị không nói, không hề phản ứng gì trước những việc A Sử làm, A Sử nổi. Ngay cả việc A Sử “‘Còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì”. A Sử hỏi, MỊ không trả lời. A Sử bắt đẩu trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột ”làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Không có một dòng hay một chữ nào mô tả lại hành động phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị khác, một cô Mị đang náo nức, say sưa với những kỷ niệm tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị trở về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Kết thúc đoạn trích ta lại thấy con người bên trong của Mị xuất hiện. “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Đấy chính là lúc Mị quên đi thực tại, nhớ về thời điểm trai làng “đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi.” Cố thể thấy rõ thực tại và kỷ niệm cứ đan xen nhau, giằng xé tâm hồn MỊ. Càng nhớ tới kỷ niệm Mị càng xót xa, đau khổ với thực tại phũ phàng. Đoạn văn cho ta thấy trong con người lầm lũi, khốn khổ đó, vẫn tiềm tàng một sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt. Người đọc không mấy khó khăn khi muốn phân tích giá trị phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc ở đoạn văn. Chỉ cần dẫn ra chi tiết tác giả mô tả thái độ của A Sử khi trói Mị một cách lạnh lùng, tàn nhẫn cũng đủ thấy bộ mặt thật ghê tởm của lũ chúa đất và số phận khốn khổ, tủi nhục của người dân miền núi, đặc biệt là người phụ nữ dưới ách thực dân phong kiến. Bên cạnh giá trị hiện thực ấy, đoạn văn tuy được trần thuật bằng một chất giọng có vẻ rất khách quan, người đọc vẫn nhận ra thái độ đồng cảm, xót thương của Tô Hoài đối với nhân vật Mị. Không thấu hiểu và thông cảm với những người bị chà đạp như Mị, nhà văn không thể hoá thân và diễn tả được thành công đời sống nội tâm phức tạp và phong phú của Mị trong cái đêm mùa xuân ấy. Cũng qua đoạn văn này, người ta còn thấy được thái độ căm phẫn của tác giả đối với loại người như A Sử. Không một lời bình phẩm, bình luận, chỉ qua vài nét phác họạ hành động của A Sử hoặc tác giả chỉ cần hạ vài chữ như “trói vợ xong” cũng đủ thấy thái độ căm phẫn của tác giả… Đó chính là ý nghĩa nhân đạo của đoạn văn.
Đoạn văn trên là một trong những đoạn văn hay nhất của truyện Vợ chồng A Phủ. Tuy rất ngắn ngủi so với toàn bộ thiên truyện nó đã thể hiện được rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động trên tinh thần hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

1. Mị uống rượu:
+ xuất thân của Mị: Mị là ng con gái H'Mông đẹp người, đẹp nết và căng tràn sức sống nhưng số phận của Mị trở nên tăm tối khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà PÁ Tra
+ Hoàn cảnh Mị uống rượu: Khi Mị đang ở nhà thống lí Pá Tra; Trong một đêm tình xuân khi mà muôn vật đang ở thì tươi đẹp; rộn ràng khắp nơi. 
+ Phân tích cảnh Mị uống rượu: Trc khi uống rượu Mị chỉ như con rùa lùi lũi nơi xó cửa; mảnh đất và không gian mùa xuân đã gieo mầm hi vọng sống trong cô gái trẻ. Mị uống rượu và thả hồn theo giai điệu của tiếng sáo Mèo; Mị nhỡ lại thời kỳ xuân xanh của mình; mùa xuân đến được đi chơi; đc đắm chìm trong giai điệu của tiếng sáo Mèo; đc đi theo tiếng gọi của trái tim và tình yêu mãnh liệt. 
" Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi" : men rượu làm cho Mị tỉnh ra, ý thức đc sự ham sống của tuổi trẻ. Mị muốn đi chơi như bao cô gái đã có chồng khác. Tiếp theo là hàng loạt nh~ hành động thể hiện sự ý thức về sự sống của Mị "lấy mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng"; "lấy váy hoa trên vách"; ....
=> Men rượu làm cho Mị từ cái xác không hồn trở nên có ý thức về sự sống; có ý thức muốn sống và thoát khỏi cuộc sống hàng ngày. 
=> Sức sống tiềm tàng không bao giờ mất đi; khi có cơ hội nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ như ngọn lửa => giá trị nhân đạo tác giả gửi gắm
2. Chí Phèo uống rượu:
+ xuất thân: trc khi bị vào tù, CP là một chàng canh điền lương thiện đi ở cho nhà Bá Kiến; do Bá Kiến ghen tuông đã đẩy CP vào tù. Sau 3 năm ở tù ra CP trở thành 1 kẻ khác hẳn; không còn là anh canh điền lương thiện năm xưa nữa, CP chìm ngập trong rượu chè sớm tối. Và bi kịch của CP cứ tiếp diễn từ đó
+ Hoàn cảnh uống rượu: Sau khi ra tù và trc khi gặp Thị Nở, CP lúc nào cũng trong tình trang say khướt. Thế nhưng từ khi gặp Thị và có tình yêu vỏn vẹn trong 5 ngày, CP đã giữ cho mình luôn tỉnh táo. Rồi sau 5 ngày bị Thị cự tuyệt CP trở về với rượu, men rượu là thứ để CP giải khuây trong lòng. Trong lúc uống rượu CP đau khổ khi nhận ra bi kịch của bản thân.
+ Phân tích:
CP tìm đến rượu để giải tỏa nỗi đau bị Thị Nở cự tuyệt; nhưng càng uống CP càng tỉnh ra càng nhận thấy sự thật đắng cay rằng đến cầu nối giúp CP trở về bờ bến lương thiện đã mất. CP bị cự tuyệt làm người, bị cả cộng đồng làng Vũ Đại xa lánh và không bao giờ đc hòa nhập lại nữa.
CP uống rượu và có lẽ đó là lúc CP tỉnh táo nhất, CP nhận ra kẻ thù đã đẩy mình đến bước đg cùng này ko ai khác chính là Bá Kiến. Tuy mồm chửi cô cháu Thị Nở, nhưng bước chân lại dẫn CP cầm dao tới nhà BK và đâm chết kẻ thù đã hại mình.
=> Thấy đc giá trị hiện thực: cuộc sống ng nông dân trong XHPK, khổ vì bi kịch là ng nhưng ko đc chấp nhận là ng
=> Tư tưởng tác phẩm 
3. so sánh
+ Giống: CP và Mị tìm đến rượu khi cuộc sống của họ đang gặp phải bế tắc.
CP và Mị đều là công cụ trong tay của bọn cường hào PK thời bấy giờ
CP và Mị đều có xuất thân trong sáng, không chút bùn nhơ nhưng bị XH xô đẩy và bị kiềm tỏa bởi những hủ tục phong kiến
+ Khác:
Mị: Ý thức đc sự sống, sự sống trong Mị luôn cháy âm ỉ chờ ngày bùng cháy => tương lai một ngày nào đó sẽ thoát ra khỏi đc cuộc sống tăm tối hiện tại
CP: Ý thức sống bị dập tắt đến bi thảm => cái chết => một vòng luẩn quẩn sẽ vẫn còn lặp lại 

        Sự hồi sinh của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở (Chí Phèo- Nam Cao) và của Mị trong đêm tình  mùa xuân (Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài)

Sự hồi sinh của Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở
- Sau những tháng ngày triền miên trong những cơ say, một sự tình cờ Chí Phèo đã gặp Thị Nở, để rồi từ đó CP đã bước sang một đoạn đời khác.
 - Từ sự thức tỉnh những cảm xúc thông thường của con người đến nỗi sợ cô đơn, nỗi khát khao trở về với xã hội bằng phẳng, thân thiện với mọi người. Nỗi khát khao ấy càng tha thiết khi CP bưng bát chào hành cùng sự chăm sóc mộc mạc, tình tứ, chân thành của Thị Nở, nhận ra hương vị cháo cũng là hương vị của tình yêu, tình đời...
- Quả thực linh hồn CP đã được phục sinh.Chính sự phục sinh này là cơ sở để sau này CP thực hiện khát vọng hoàn lương của mình mạn mẽ hơ, quyết liệt hơn.
- Diễn biến tâm lý phức tạp những logic
Sự hồi sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân
- Với không gian Tây Bắc đậm đắc sắc xuân,với không khí chuẩn bị tết rộn ràng ở nhà Pá Tra, đặc biệt là tiếng sáo đã đánh thức được tâm hồn Mị
- Sự hồi sinh của Mị được thể hiện qua những hành động, tâm lý khác nhau:
+ Mị uống rượu, vừa uống vừa nuốt hận, chính hơi men đã dìu Mị đi theo tiếng sáo, Mị nhớ về quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi thời thiếu nữ, niềm ham sống đã trở lại trong Mị
+ Mị thấy đau đớn bởi thực tại, Mị khóc, Mị muốn chết.Trái tim suy kiệt đã ấm nóng trỏ lại
+ Tiếng sáo vẫn lửng lơ bay, Mị đã có những hành động nhanh chóng để thắp lên khát vọng sông, được ra với không gian tình ngoài kia. Kể cả khi bị trói, Mị vẫn thả ồn theo tiếng sáo.
 + Trong Mị vẫn vẹn nguyên niềm yêu đời, khát sống. Sự hối sinh này là điểm tựa để sau này Mị cởi trói đời mình.
Điểm tương đồng và khác biệt
- Điểm tương đồng: Cả hai nhân vật đều thể hiện rõ sự phục sinh trong tâm hồn của một con quỷ dữ, của một thân phận trâu ngựa. Từ đó cho thấy được niềm tin yêu, sự trân trọng của nhà văn với các nhân vật
 Thể hiện rõ khả năng khám phá và miêu tả tâm lý nhân vật
  Độc thoại nội tâm...
- Điểm khác biệt: Ở nhân vật Chí Phèo, sự hồi sinh được diễn ra khi có sự tác động của con người (sự chăm sóc của Thị Nở).Sử dụng kết hợp cả ngôn ngữ đối thoại cà độc thoại
Ở nhân vật Mị: là sự tác động của tiếng sáo. Tác giả đặt nhân vật vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt- hiện thực phũ phàng.
Đánh giá chung
  Cả hai nhà văn đều thể hiện thành công sự hồi sinh trong tâm hồn của những con người sống lay lắt.Qua đó để khẳng định một niềm tin: Sức sống của con người thật sự mãnh liệt, dù đay là hai tác phẩm thuộc hai trào lưu văn học khác nhau.
Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi để xây dựng nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Đọc Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị, nhất là sự hồi sinh nhân tính của họ. Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình.
“Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính người, tình người được sống lại. Nói về sự hồi sinh nhân tính, ta đã bắt gặp sự hồi sinh ấy trong văn học trước đó, bất cứ nhân vật nào, một khi đã tha hóa, họ đều có quá trình thức tỉnh về tâm hồn, như Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ, như Hộ (Đời thừa – Nam Cao),
… Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ thức tỉnh sau khi đánh đuổi vợ con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ đã khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là bằng chứng cho sự thức tỉnh, hồi sinh nhân tính. Còn sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?
Để lí giải sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đều viện dẫn đến những tác nhân tác động từ bên ngoài. Đúng vậy, phải có sự tác động thì con người ta mới có thể thức tỉnh, cũng giống như con người khi chìm vào giấc ngủ say triền miên, phải có sự tác động thì ta mới có thể tỉnh giấc. Cả Chí Phèo và Mị đều có tác nhân như vậy.
Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Tình người của thị Nở đã đánh thức tình người nơi Chí và chỉ có tình người ấy mới khơi dậy sự hồi sinh của Chí. Còn Mị lại thức tỉnh về nhân tính trong đêm tình mùa xuân. Nếu như Chí nhờ có tác động của con người, tình người thì Mị lại nhờ sự tác động của cảnh vật, để hồi tỉnh lại nhân tính.
Trước khi hồi sinh nhân tính, cả Chí và Mị đều có những số phận và bi kịch đau đớn giống nhau.
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính, về nhân hình, Chí là một con vật lạ với khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, về nhân tính, Chí là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ và làm tay sai đòi nợ cho bá Kiến. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người, cha mẹ từ chối Chí, dân làng cũng từ chối Chí”. Chí rơi vào bi kịch khi không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội bằng phẳng kia. Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như vậy, đâu ai dám sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chĩ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.
Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Mị giống như một con rùa được nuôi trong xó cửa. sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như những người phụ nữ trong nhà này, làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với con người thì Mị lại không buồn giao tiếp. Mị lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính người nhưng “tính người” bị mất đi ở đây khác với Chí. Nếu như Chí Phèo bị tha hóa về nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị lại mất đi nhân tính ở chỗ cô không được coi là một con người. Sống ở nhà thống lí Pá Tra, MỊ như một “con trâu, con ngựa”. Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống
Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.
Sự hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị Nở, chính tình người của thị Nở đã đánh thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị là một tấm lòng rất bao dung và vị tha. Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tĩnh dậy, Chí lần đầu tiên để tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị. Và Chí thèm được làm người lương thiện. Khát vọng lương thiện ấy chính là bằng chứng cho sự hồi sinh nhân tính của Chí. Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị Nở cũng có duyên và muốn cùng thị chung sống. Chí đã mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người lương thiện.
Nhờ có tình người của thị mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị sống trong nhà thống Pá Tra như một con người đã mất đi linh hồn. Thế nhưng, trong đêm tình mùa xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân. Cũng giống như Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo rất hay. MỊ uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và Mị cũng muốn đi chơi. Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy. Những hành động ấy chứng tỏ rằng Mị đã thật sự hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã được sống dậy nhờ âm thanh của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay cả khi Mị đã bị A Sử trói chặt vào cột nhà. MỊ đã thả hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự hồi sinh nhân tính của Mị rất mạnh mẽ.
Chí Phèo và Mị đều được hồi sinh nhân tính. Sự hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở về với cuộc sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô. Cả Nam Cao và Tô Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng nhữỉig ước mơ bình dị của họ. Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh ấy. Cái xã hội với những tàn dư phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự tha hóa.
 Và những hủ tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch, bào mòn sức sống của Mị.
Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật đều là sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Gấp lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể nhận thấy sự hồi sinh nhân tính đưa hai nhân vật đến với những cuộc sống mới khác nhau nhưng giá trị của sự hồi sinh ấy lại có một giá trị hết sức giống nhau, nó phản ánh tiếng lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho nhân vật Chí Phèo và Mị, những con người có số phận rất đáng thương xót.
Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) 
I. Yêu cầu về kĩ năng: 
- Nắm vững phương pháp làm bài văn nghị luận văn học
- Bố cục chặt chẽ, văn lưu loát, có cảm xúc.
II. Yêu cầu về nội dung:
Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và giới hạn đề.
- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” là một trong những chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
- Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ khi viết đề tài miền núi, trong đó có tác phẩm Vợ chồng A Phủ - đạt giải Nhất, Giải thưởng hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thể hiện rõ điều đó có lẽ phải kể đến chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”.
Về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao:
- Về nội dung: 
+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí.
+ Từ khi đi tù về đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của c/s. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sống trong anh.
+ Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhớ về quá khứ, ý thức được hiện tại và nghĩ đến tương lai.
- Về Nghệ thuật:
+ Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Về chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) 
- Về nội dung:
+ Mùa xuân trên miền núi Tây Bắc được miêu tả rất đẹp, sắc màu của những chiếc váy hoa, tiếng cười nói của đám trẻ chơi quay đợi tết, đặc biệt là tiếng sáo da diết xoáy sâu vào trái tim tưởng như băng giá của Mị. 
+ Mị nhớ về quá khứ; nhận thức được hiện tại, thấm thía thân phận và hành động (uống rượu, xắn mỡ,…)
+ Âm thanh đó đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu, hạnh phúc và lòng khát khao cuộc sống tự do.
- Về nghệ thuật: 
+ Là một chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lí của nhân vật.
+ Tài nghệ miêu tả tâm lí sống động cũng như tấm lòng nhân đạo (phát hiện ra sức sống tiềm tàng…) của nhà văn
So sánh:
- Sự tương đồng: 
+ Đó là những âm thanh hết sức diệu kì, nó len lỏi vào tận sâu tâm hồn vốn tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khát khao sống mãnh liệt.
+ Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẽ trong hai tác phẩm.
- Sự khác biệt:
+ Ở tp Chí Phèo là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh “hôm nào chả có”. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy vì bây giờ mới hết say...đây là âm thanh của khát khao được sống, được làm người lương thiện của một người không có quyền làm người.
+ Chi tiết ở tác phẩm VCAP đến trong mùa xuân trên bản Hồng Ngài. Là âm thanh Mị từng nghe thủa chưa về nhà Thống Lí Phá Tra. Đây là tác nhân quan trọng giúp cho Mị từ một con người tê dại, vô cảm về tâm hồn giờ đã “thấy phơi phới trở lại”,…
Đánh giá về giá trị.
Cảm nhận về 'tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.tiếng của mấy bà đi chợ về" (Chí Phèo - Nam Cao ) và 'Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi..' (Vợ chồng A Phủ -Tô Hoài)

Bài làm:

Trong tác phẩm văn học,chi tiết nghệ thuật cực kỳ quan trọng,nếu ko có nó,tác phẩm dường như chưa thực sự mang tầm. Chi tiết nghệ thuật giống như một hạt cát nhưng đủ để mang đến một sa mạc mênh mông,chi tiết nghệ thuật giống như một giọt nước nhưng có thể làm đồng hiện cả đại dương bao la.Trong tác phẩm CP và Vợ chồng A Phủ hai tác giả Nam Cao và Tô Hoài đã làm nên hai"hạt cát","hai giọt nước ấy".Đó là 'tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá.tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.tiếng của mấy bà đi chợ về' (Chí Phèo ) và 'Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi..'(Vợ chồng A Phủ ).

Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang lại sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng.sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm xúc và thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ ở chi tiết. Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh,biểu hiện cái toàn thê.NC̉ xây dựng chi tiết Chí Phèo thức dậy sau cơn say dài và nghe được âm thanh của cuộc sống đời thường rất đỗi bình dị.TH thì thâm nhập vào mê cung tâm trạng của Mị để thổn thức với tiếng sáo gọi bạn tình rập rờn,thiết tha,bổi hổi. Như vậy, điểm chung nhất của NC và TH đó chính là họ đã thổi vào tác phẩm của mình một âm thanh.Đó là những âm thanh hết sức diệu kỳ,nó len lỏi vào tận sau trong tâm hồn vốn tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khao khát sống mãnh liệt.giả dụ như ko có âm thanh ấy, Chí Phèo đã triền miên trong cơn say dài để chẳng bh biết mình có mặt trên cõi đời này.giả dụ ko có tiếng sáo ấy,Mị vẫn chỉ là cô gái ngồi quay sợi gay bên tảng đá,mãi vô cảm,vô hồn như 'cái vỏ ko có ý nghĩa gì hết'.thế nhưng âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh thức cô Mị ngày xưa,đã đưa cô đến với những phút giây hồi sinh mãnh liệt.Để rồi có sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh thực tại mang đến bao nhiêu cảm xúc cho người đọc.và cũng chính nhờ thứ âm thanh bình dị, thân thuộc của cuộc sống thôn quê mà Chí Phèo nghe được đã thức dậy cái tính Người vốn dĩ đã vùi dập trong chí. Để rồi sau đó ta thấy một Chí Phèo hiền lành, lương thiện biết bao trong cái hình hài vốn đã bị hư hao rất nhiều sau những tháng năm bán mình cho quỹ dữ.

Xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc ấy, NC và TH đã chung nhau một điểm đó là'mượn âm thanh' để gơị dậy những'âm thanh' vốn dĩ bị chìm khuất trong nhân vật.Đấy cũng là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm Chí Phèo -NC và Vợ chồng A Phủ -TH

Cùng xây dựng chi tiết nghệ thuật ấy nhưng do quan niệm và cách viết khác nhau,đề tài khác nhau nên ở hai chi tiết nghệ thuật trong CP và Vợ chồng A Phủ lại mang những ý nghĩa riêng.

Ở tác phẩm'Chí Phèo ' là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh 'hôm nào chả có' . Đó là tiếng chim hót ngoài vườn, tiếng mấy bà đi chợ về,tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá....giả dụ như đó là tiếng quát mắng của Bá Kiến,hay cái giọng lè nhè say của Tự Lãng, hay tiếng khóc tỉ tê của một người vừa bị Chí làm cho đỗ vỡ thì chắc NC ko bao giờ lay động được lòng người như những âm thanh bình dị này. Lần theo cái trạng thái tâm lý'miệng đắng,lòng mơ hồ buồn' của Chí ta thấm thiá được một thân phận.Thân phận của một kẻ cùng đường. Thân phận làm người nhưng ko được công nhận là con người .

Chí phèo được nhà văn NC xây dựng bằng một lòng nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã vui buồn,khổ đau cùng với số phận nhân vật ngay từ đầu cho đến cuối tác phẩm.Vui mừng khi Chí Phèo sống với ước mơ thời tuổi trẻ'chồng cuốc mướn cày thuê,vợ ở nhà dệt vải'.buồn khi Chí Phèo trở thành con qũy dữ của làng Vũ đại,buồn khi Chí trượt dài trong tội lỗi' ăn trong lúc say,thức trong lúc say, thức dậy hãy còn say..say nữa,say vô tận.những cơn say của hắn tràn từ cơn say này sang cơn say khác thành những cơn dài mênh mang.chưa bh hắn tỉnh táo để thấy mình có mặt trên cõi đời này'.Nhưng NC ko từ bỏ chí,nhà văn đã mang tấm lòng yêu thương của mình đến với chí.NC đã phái một 'thiên sứ'tình yêu đến vớiChí Phèo . Đó là Thị Nở-thiên sứ ấy ko có đôi cánh thiên thần nhưng có trái tim nhân ái.và sau cuộc tình ấy trong đêm trăng rắc bụi vàng trên sông. Chí Phèo đã thoát ra khỏi cơn mê của cuộc đời hắn.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con qũy dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lý.từ khi đi tù về,đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm chì hết say,hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống,.tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá.tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Tiếng mấy bà đi chợ về' những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay chí mới nghe được bởi vì đến bh hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang.từ tiếng chim hót,tiếng mái chèo,tiếng người nói...như những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn chí,như dòng nước mát lành,như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất tâm hồn khô cằn sỏi đá của chí.vùng đất khô hạn tình thương ấy, vùng đất chỉ biết đến thứ nước luôn tưới lên nó là rượu và nuớc mắt của người lương thiện.nay đọc được những thứ'nhựa sống'của cuộc đời tưới vào thắm sâu tâm hồn của chí.tư đó̀ tâm hồn của anh bùng lên đầy xúc cảm.anh như con chim trong lồng chiếc lồng giam cầm,xa cuộc sống đồng loại,bỗng một ngày được nghe tiếng hót ca của bạn bầu bỗng như tìm lại được mình lại vui ca hót.

Âm thanh đó đã đánh thức trong chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra ngoài cái lều ẩm ướt thấp chỉ có hơi mờ lờ của mình rằng:'mặt trời chắc đã lên cao,và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ''. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy,Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, nhưng với anh, đây là cảm giác,cảm xúc vừa bị đánh thức.phải rồi, nếu hắn đang là con quỷ thì làm sao hắn có được cái cảm giác'mơ hồ buồn' đó được. và là quỷ nhất lại thứ quỷ khát máu như chí sao có thể biết buồn chứ?

Khi Chí Phèo nghe những âm thanh của cuộc sống chính là anh đã dần ý thức về cuộc sống. Âm thanh cuộc sống ý như như âm thanh tíc tắc của chiếc kim đồng hồ quay ngược time đã đánh thức trong chí về giấc mơ thời trai trẻ.Âm thanh của cuộc sống bình dị đã đưa anh nhớ về quá khứ,rằng có một thời,đã'ước mơ có một cuộc sống gia đình nho nhỏ.chồng cuốc mướn cày thuê.vợ dệt vải.bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng.khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm'. Cả kí ức ấy sống lại trong chí thật đẹp,thật dung dị đời thường xiết bao cái qúa ấy đẹp đến thì chí lại cô đơn trong hiện tại bấy nhiêu. Thông thường,người ta nhớ lại time quá vãng để hiểu hiện tại.Chí cũng vả,đến lúc hắn chợt nhận ra rằng'hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.buồn thay cho đời!có lí nào như thế được?hắn đã già rồi hay sao? ngoài bốn mươi tuổi đâu....hắn đã tới cái kia của đời'.hình dung cuộc đời mình chí thấy mình chẳng có gì ngoài hai chữ"cô độc".nếu lão Gôriô trong trang văn của thi hào Banzắc có cô độc,cô đơn đến bao nhiêu thì lão vẫn còn một niềm an ủi là tình thương mù quáng của mình dành cho hai con gái.lão vẫn còn một người hiểu lão là chàng sinh viên Ratinhắc.Nhưng ở đây, Chí Phèo có một sự cô độc đến trọn vẹn.

Cũng chính âm thanh bình dị mà chí nghe được lại làm cho anh phải nghĩ suy nhiều hơn,sâu xa hơn. Chí hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước. Ở những người như hắn,chịu đựng biết bao biết bao là chất độc,đày đọa cực nhọc,mà chưa bh ôḿ 'một trận ốm có thể là dấu hiệu bao ́ rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.Nó là cơn mưa cuối thu cho biết trời gió rét,này mùa đông đã đến'. Chí Phèo ko có thị nở vào,cứ để hắn vẫn vơ,thì đến khóc được mất. Đến đây, ko ai nghĩ CP là con quỷ dữ của làng Vũ đại nữa, một người ko những giàu cảm giác,cảm xúc, mà còn ý thức có phần sâu sắc về cuộc đời,về bản thân phải là con người bình thường.

Với bàn tay ân ái của Thị Nở, Chí như được lột bỏ vỏ quỷ đê trở lại hình hài của con người.bát cháo hành có thể là liều thuốc giải cực mạnh đã góp phần tâỷ ố men rượu,tâỷ ố những nhơ nhuốc của cuộc đời bất hạnh,trả lại cho anh những điêu ̀ đã mất. lòng yêu của Thị Nở là lòng yêu của 'một ngươi ̀ làm ơn và các cả lòng yêu của người chịu ơn'. Còn Chí Phèo , anh cảm nhận được một điều thật chua chátDescription: :xưa nay nếu tôi muốn ăn thì phải giật,nạt,dọa,cướp.cuộc đời hắn chưa bh được bàn tay đàn bà nào cho.và thị nở là lần đầu.Lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho,được sống trong tình cảm yêu thương thực sự.bát cháo hành đã ngấm càng làm hắn suy nghĩ nhiều.
Từ cảm nhận về tình yêu của thị nở,cảm xúc,cảm giác càng được đánh thức sâu sắc hơn ở CP:' hắn thấy mắt hình như ươn ướt...hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng..hắn thấy vừa vui vừa buồn..hắn thấy lòng thành trẻ con.hắn muốn làm nũng thị như với mẹ.ôi sao mà hắn hiền..'.không những thế, ở chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn..hối hận về tội ác khi ko đủ sức mà ác nữa.

Và có lẽ sự bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị nở là khát vọng lương thiện.đấy cũng là đỉnh điểm của sự thức tỉnh của Chí Phèo :'hắn thèm lương thiện,hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được . Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai . Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng , thân thiện của những người lương thiện...» Đoạn văn ngắn nhưng chứa đựng trong đó là câu sự khao khát cháy bỏng của Chí Phèo . Tình người của Thị Nở đánh thức tính người ở chí. Tình người vẫy gọi Chí trở về với đồng loại, bởi con người chỉ thực sự là con người khi đồng loại chấp nhận . Khát vọng ấy ở con người như chí thật cảm động biết bao.

Cũng chính nhờ âm thanh ấy mà Chí Phèo đã tự ý thức và trở về với một Chí Phèo hiền lành,lương thiện. Cũng chính nhờ âm thanh ấy cùng với những ngày hp trong tình yêu,tình người với Thị Nở mà Chí Phèo đã trở nên chính mình.cuối tác phẩm, Chí Phèo xách dao đi đòi lương thiện, giết chết con cáo già Bá Kiến, trừ haị cho dân và cũng chính Chí cũng tự kết liễu cuộc đời mình.phải chăng cũng là do âm thanh ấy trong cuộc sống ấy đã thức tỉnh chí để đi đến một hành động đầy đau đớn nhưng cũng rất tất yếu và hợp lý?

Đánh giá về giá trị nghệ thuật của chi tiết ấy,ta thấy âm thanh 'tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá,tiếng mấy bà đi chợ về' là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lý và bi kịch của nhân vật.chi tiết ấy nhỏ,chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bản làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác.nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nữa cuộc đời của chí.qua việc tập trung vào chi tiết đắt giá ấy, NC đã tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc mang đến cho người đọc những trang viết đẹp,xúc động.

Nếu như 'tiếng chim.......qúa' đã thức dậy cả một linh hồn tưởng như đã chết thì chi tiết 'Mị.....bổi hổi..'mà nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ -TH) cũng mang đến cho nhân vật và bạn đọc nhiều xúc cảm mãnh liệt

Mị là cô gái trẻ đẹp nhưng vì món nợ của bố mẹ mà mị đã bị bắt vào nhà thống lý Pá Tra sống kiếp trâu ngựa.Mị bị tước đoạt tình yêu,tuổi xuân,hp ,bị bóc lột sức lao động thậm tệ.Mị trở thành "súc nô"-một tù nhân với bản án tù chung thân suốt đời trong chốn địa ngục trần gian nhà thống lý.Từ đó,cô gái người Mèo ấy sống trong vô cảm'lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa'.cô cứ tưởng mình là'con trâu mình cũng là con ngựa ''Mị dần mất đi tiếng nói'càng ngày càng ko nói'. Từ đó Mị trở thành người đàn bà lặng câm,vô cảm.

Nhưng mùa xuân trên miền núi Tây Bắc đã đến, mùa xuân ấy được miêu tả rất đẹp, sắc màu của 'cỏ gianh vàng ửng','những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm ́ sặc sỡ, tiếng cười nói của đám trẻ chơi quay đợi tết, đặc biệt là tiếng sáo da diết xoáy sâu vào trái tim tưởng như băng giá của Mị.

Tiếng sáo khi ở xa thì 'lấp ló' nơi đầu núi,khi lại gần thì 'lửng lơ bay ngoài đường' rồi cuối cùng nhập vào hồn Mị: 'Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo'. Tiếng sáo chính là hiện thân của tuổi trẻ,của tình yêu,của qúa khứ,của tài năng mà Mị có. Bởi vậy, khi nghe tiếng sáo thổi, Mị thấy 'tha thiết bổi hổi' tâm hồn Mị được hồi sinh mãnh liệt.

Tiếng sáo hối thúc Mị, tiếng sáo như cơn gió thổi bung đi lớp tro tàn nguội lạnh đang phủ lấy tâm hồn Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị làm đồng hiện quá khứ tươi đẹp của một cô gái giàu tài năng.bước nhảy tâm lý đầu tiên của Mị đó là việc Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta ko có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu


Bài hát ấy lâu rồi Mị ko hát,điệu sáo ấy lâu rồi mị ko thổi. Nhưng đêm nay mị lại nhớ,lại nhẩm thầm,,mị vẫn thuộc.nghĩa là mị ko vô cảm.nói đúng hơn, sự vô cảm chỉ là lớp vỏ bề ngoài, còn bên trong Mị vẫn có một trái tim khát sống,rực lửa yêu thương. Nó là ngọn lửa âm ỉ cháy trong lớp tàn tro,sẽ bùng lên khi gặp gió. Tiếng sáo ấy là ngọn gió lành thổi về bao mộng đẹp.

Chính tiếng sáo dẫn mị đến hành động'nổi loạn về nhân cách'':"Mị lén lấy hủ rượu,cứ uống ừng ực từng bát.rồi say,mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng,người hát,nhưng lòng mị đang sống về ngày trước".mị uống như nuốt cay,nuốt đắng,nuốt hận vào trong lòng. Uống cho quên nhưng lại nhớ.một khi uống rượu ko còn đủ sức làm người ta quên thì nó lại quay lại thức tỉnh cả con tim và lý trí, Mị lại nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Rượu chính là chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. Rượu làm Mị sống lại một quá khứ đầy ắp niềm vui sướng: 'ngày trước, mị thổi sáo giỏi.mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo mộ'. Tiếng sáo ấy cùng những hoài niệm và men rượu hòa quyện.

Sau đó,mị lại bước vào buồng, lại'ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng'. trong nhà thống lý là tù ngục, ngoài ô cửa kia là thiên đường tuổi trẻ. Chi tiết này cho thấy, Mị nhìn về phía ánh sáng, có nghĩa là tâm hồn Mị đang khao khát 'vượt ngục'.'Mị thấy phơi phới trở lại,trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước'.đó là niềm của kẻ đã tìm lại được mình.Và mị ý thức được rằng' Mị trẻ lắm.mị còn trẻ.mị muốn đi chơi'.nhận thấy mình còn trẻ và muốn đi chơi có nghĩa là trong mị rất khát khao tự do.đúng là bi kịch.khi một người đàn bà chợt nhận ra mình còn trẻ trong hoàn cảnh trớ trêu này thì đúng là bi kịch.qúa khứ làm mị trẻ lại.hiện tại làm Mị đau đớn,ê chề.

Đỉnh điểm của cảm xúc bi kịch là nỗi tủi thân:mị đã có c.sống ko hp với A Sử:'a sử với mị,ko có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau'.đau đớn qúa,mị khao khát :'nếu có nắm lá ngón trong tay này,mị sẽ ăn cho chết ngay,chứ ko buồn nhớ lại nữa'.muốn chết,nghĩa là mị sẽ ko còn như trước nữa, Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh ấy. Mị đã ko còn chấp nhận cái thực trạng ê chề này. đó chính là sức sống đã được đánh thức.

Âm thanh đó đã làm thức dậy trong mị ý thức về tình yêu,hp và lòng khát khao cuộc sống tự do. Từ đó, Mị đi đến quyết định táo bạo:bỏ nhà đi theo những đám chơi.đó là ý định giải thoát lặng lẽ như vô cùng mãnh liệt.'mị đến góc nhà,lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng'.ngọn đèn được thắp lên,ánh sáng của nó xua tan cái bóng đêm ảm đạm đang vây quanh mị,đang thắp lên ngọn lửa trong tâm hồn miu.một loạt các hành động gấp gáp được TH diễn tả:'mị muốn đi chơi,mị cũng sắp đi chơi...mị quấn tóc lại,mị với lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách..'.đó là nhu cầu làm đẹp bản thân trước lúc đi chơi. Mị làm tất cả,thật bình thản và ko hề để ý đến thái độ của A Sử chứng tỏ,sức sống mãnh liệt trong Mị đang lớn hơn tất cả, bóng ma thần quyền cũng ko thể lớn hơn sức sống của Mị.

Ý định giải thoát của mị không thành khi a sử trở về . Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trỗi dậy đó:'nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng mị vào cột nhà,
.tóc mị xoã xuống, A Sử buộc luôn tóc lên cột , làm cho Mị ko cúi , ko nghiêng được đầu nữa..'.miêu tả sự tàn nhẫn của a sử chính là sức mạnh của ngòi bút TH đã tố cáo và lên án mặt bất nhân của bọn chủ nô phong kiến miền núi.

Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, chứ ko trói được tầm hồǹ của Mị, bởi tâm hồn Mị đang tự do dạo chơi trong thế giới của khát vọng sống:' trong bóng tối,mị đứng im lặng như ko biết mình bị trói,hơi rượu còn nồng nàn,mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi,những đám chơi..'.Mị ko biết mình bi trói nghĩa là cô ko sống bằng thể xác nữa mà thực sự đang sống bằng tâm hồn.có lúc tiếng sáo gọi bạn tình nhập vào hồn mị,mi vui sướng quá đến nỗi: 'Mị vùng bước đi'. và thực sự cô tỉnh khi' tay chân đau ko cựa được'.tỉnh rồi lại nghe tiếng chân ngựa đập vào vách,âm thanh tiếng chân ngựa đập vào vách đã đưa Mị từ nỗi nhớ trở về với hiện tại. giấc mơ tan biến. Tiếng sáo cũng không còn.chỉ còn Mị với nỗi đau thân phận, tỉnh rồi mới thấy lòng cay đắng' Mị thôn̉ thức nghĩ mình ko bằng con ngựa'.

Cũng như âm thanh tiếng sáo đánh thức mà ngọn lửa tình yêu và khát vọng tự do trong mị lại một lần nữa bùng cháy và chắc chắn sẽ trở thành ngọn lửa rực rỡ mà bằng chứng là hành động cởi trói dây cho a phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.

Xét về giá trị nghệ thuật: ta thấy đây là chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lý của nhân vật.tâm lý nhân vật từ khi nghe tiếng sáo đã có sự chuyển biến phức tạp nhưng sâu sắc. Tiếng sáo tạo ra bước ngoặt tâm lý và cũng là chi tiết mà ở đó,TH đây ý đồ nghệ thuật của mình đến mức tài năng. Chính âm thanh ấy làm thay đổi tất cả con người của mị,từng việc 'ngồi nhẩm thầm tiếng sáo 'đã đứng dậy thành hành động.điều đó chứng tỏ tài nghệ miêu tả tâm lý sống động cũng như tấm lòng nhân đạo (phát hiện ra sức sống tiềm tàng..) của nhà văn.

Có thể nói,"chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn", chi tiết là những hiện thực đời sống được nhà văn tái hiện trong tác phẩm là đơn vị cấu tạo nên tác phẩm,mang sức chứa lớn về nội dung và nghệ thuật.tuỳ theo sự thể hiện cụ thể mà chi tiết có khả năng giải thích, tái hiện,biểu hiện...khiến hình tượng nghê thuật trở nên cụ thể, gợi cảm và sống động,khiến ý đồ tư tưởng của nhà văn hiện hình rõ rệt, trở thành tiêu điểm,điểm hội tụ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm.những chi tiết thường được chọn lọc, gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là sự dồn nén những điều mà nhà văn muốn nói.

Tóm lại, qua hai chi tiết nghệ thuật trong hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ mà ta vừa phân tích ở trên.hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta hai thiên truyện ngắn đặc sắc nhất của văn chương VN. Qua hai chi tiết nghệ thuật ấy ta càng hiểu sâu sắc hơn tấm lòng nhân đạo của hai nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc.
Cháo hành trong Chí Phèo, cháo cám trong Vợ nhặt.
1. Phân tích hình tượng bát cháo hành:
– Ý nghĩa chi tiết:
+ Nội dung:
·         Thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư, không vụ lợi của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
·         Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
·         Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí -> gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Sau khi ăn bát cháo hành, Chí đã ước ao tha thiết được trở về với cuộc đời lương thiện. -> Bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:
->Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình
> Khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện.
·         Nhưng bị cự tuyêt -> Bát cháo hành làm CP thêm đau khổ, tuyệt vọng.
+ Nghệ thuật:
·         Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
·         Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tửơng vào khả năng cảm hoá của tình người.
2. Phân tích chi tiết bát cháo cám:
– Ý nghĩa:
+ Nội dung:
·         Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh của nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”  số phận nghèo khổ, rẻ mạt của ndan trong nạn đói.
·         Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ :
-> Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực -> mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình.
->Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
·         Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người , niềm tin và hy vọng.
-> Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị.
-> Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí gđ vui vẻ hơn.
-> Thị là người con dâu ý tứ, không muốn để mẹ chồng buồn, mất không khí gđ đầm ấm (chi tiết “thị điềm nhiên và vào miệng)
+ Nghệ thuật:
Thể hiện tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. Tương đồng và khác biệt:
a,Giống:
– Nội dung:
+Đều là biểu hiện của tình người.
+ Đều thể hiện được bi kịch của nhân vật, hiện thực xã hôi:
·         Bát cháo hành: bi kịch bị tha hoá + bị cự tuyệt quyền làm người-> thể hiện rõ hơn bi kịch bị cự tuyệt của xã hội đối vs Chí Phèo, bi kịch muốn hoàn lương nhưng không đc…
·         Nồi cháo cám: thể hiện rõ hiện thực tàn khốc của nạn đói : cám vốn là thức ăn của con vật
– Nghệ thuật:
Đêù thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của 2 nhà văn.
b, Khác:
– Ndung:
+Cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo -> thể hiện rõ định kiến xã hội không chấp nhận Chí -> xã hội vô nhân đạo.
Cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của ng dân lao động trong nan đói.
+Cháo hành: thể hiện cái nhìn bế tắc của Nam Cao đối vs ng nông dân (Chí Phèo bị cự tuyêt và phải chết + xã hội không có tình người)  cảm quan hiện thực của 1 nhà văn trước CMT8.
Cám: niềm tin vào khả năng cách mạng của người dân của Kim Lân (sau bát cám thị nhắc đến đoàn người đói, Việt Minh,… -> thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng) -> cảm quan nhà văn sau CMT8.


Vẻ đẹp xứ Huế qua tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
I. NÉT KHÁI QUÁT VỀ HAI TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác:
a.    Đây thôn Vĩ Dạ
-    Xuất xứ: rút từ tập Thơ điên (1938)
-    Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được khởi hứng từ bức bưu ảnh mà Hoàng Cúc
người thiếu nữ ở Vĩ Dạ, người tình trong mộng của nhà thơ - gửi tặng.

I. NÉT CHUNG VÀ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI TÁC PHẨM.
Qua hai tác phẩm, mỗi tác giả đều làm hiện lên được vẻ đẹp nổi bật, đặc trưng của xứ Huế. Tuy nhiên, giữa họ vừa có nét chung, vừa có sự khác biệt.
1.    Nét chung:
-    Cùng lấy những địa danh của xứ Huế làm điểm nhìn, điểm nhấn trọng tâm và khởi hứng cảm xúc: thôn Vĩ Dạ và sông Hương.
-    Đều tái hiện được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc, con người xứ Huế: rất riêng, rất thơ mộng, rất Huế.
-    Đều mang những cảm xúc hết sức chân thực, sâu lắng.
Nguyên nhân:
+ Cả hai tác giả đều là người có tình cảm tha thiết đối với Huế.
+ Cả hai tác giả đều là những cây bút tài hoa, tinh tế, nhạy cảm trong văn chương, có tâm hồn hết sức lãng mạn, phong phú.
2.    Sự khác biệt:
a.    Đây thôn Vĩ Dạ: Chọn điểm nhìn cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn được gợi hứng từ bức ảnh, cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua những nét đặc trưng rất bình dị, gần gũi, quen thuộc và đầy chất lãng mạn: Đó là cảnh vườn tược, sông nước, con người xứ Huế trong vẻ đẹp sâu đậm của cảm xúc về tình đời, tình người.
b.    Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Chọn điểm nhìn là sông Hương. Đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, từ đời sông cho đến văn hóa. Vì thế, vẻ đẹp của Huế hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa.
Nguyên nhân:
+ Do hoàn cảnh, cảm xúc và phong cách văn chương khác nhau.
+ Do đặc điểm thể loại của thơ và bút kí. Thơ chủ yếu nghiêng về cảm xúc, bút kí đòi hỏi không chỉ cảm xúc mà ít nhiều còn có tính xác thực và khách quan của hiện thực phản ánh.
+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế chỉ là nơi tác giả gắn bó bằng kỉ niệm còn Hoàng Phủ Ngọc Tường lại chính là một người con của xứ Huế; chất Huế đã thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt nên ông hiểu Huế, yêu Huế như một lẽ rất tự nhiên, rất sâu đậm và giàu trải nghiệm
* Chí Phèo:

+ Là khởi đầu của cuộc đời Chí Phèo, là dấu mốc cho số phận cay đắng và "********" của hắn.

+Là tàn dư của cuộc sống bất hạnh và nghèo khó, nó bao trùm lên không khí của cả một ngôi làng và ảnh hưởng tới từng con người.

+ Là nơi để người ta rũ bỏ tội lỗi của mình, nơi tình người bị phủ bỏ, cụ thể là Chí Phèo bị vứt đi và "thế hệ sau" của Chí cũng sẽ lặp lại như cuộc đời Chí.

+ Là cả một nỗi ám ảnh về những cuộc đời không trọn vẹn, những tấm thân và số phận như Chí - bị ruồng rẫy, hắt hủi, rũ bỏ, từ chối quyền làm người. Sự lặp lại của nó là sự dự báo về một tương lai không mấy tốt lành và là điềm dự cho những ngày tháng giông bão sẽ tái diễn tại làng Vũ Đại nhỏ bé ấy nếu giả như rằng ánh sáng của cách mạng không soi rọi được tới đây và không chỉ một mình Chí mà còn nhiều người khác cũng sẽ bị lâm vào cảnh sống bế tắc, cùng hàn.

(...tạm thời là vậy vì k có thời gian để suy nghĩ".
Kết cấu đầu cuối tương ứng trong rừng xà nu và chí phèo

* "Rừng xà nu":

+ Với "Rừng xà nu"đuoc sang tac trong giai doan cach mạng sục soi nên phần nào chi tiết "cánh rừng xà nu" cũng mang nhiều ý nghĩa tích cực, đó là sự nối tiếp truyền thống của dân làng Xô Man anh hùng.

+ Là không khí cách mạng lan toả như những cánh rừng xà nu bạt ngàn trải dài.

+ Là tinh thần chiến đấu không ngưng nghỉ với kẻ thù không một phút nản lòng... (dẫn chứng về sức sống của rừng) Rõ ràng "cánh rừng" mở ra một con đường và tương lai mới tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn và tràn đầy hứng khởi hơn, không mấy u tối và tiêu cực như trong CP.

+ Là súc sống của con người Tây Nguyen, sự kiên gan và dũng cảm của họ. Ngoài ra đó còn là tiềm lực, niềm tin, chỗ dựa tinh thần để họ tiếp tục vươn dậy, trỗi dậy, cao và xa hơn ở một tầm với khác..

(...tạm thời vì k có thời gian để suy nghĩ).

* Tương đồng:

- Là chi tiết nghệ thuật theo cùng một kết cấu.

- The hien gia tri nhan dao sau sac'.


*Khác biệt:

- "Lò gạch cũ" mang kết cục khá bi quan nhưng vẫn thấm đãm giá trị nhân đạo.

- "Rừng xà nu" mở ra con đường mới tươi sáng hơn và lạc quan hơn, gợi lên tình cảm yêu nước và lòngn hiệt huyết nơi người đọc.
Đề bài :
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:
“Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…”
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155)


Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
“Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)


Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.

Hướng dẫn cách làm:
I. Mở bài :
Giới thiệu Nam Cao , truyện Chí Phèo và đoạn kết truyện
Giới thiệu Kim Lân, Vợ nhặt và đoạn kết truyện
Dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thường khai thác một khía cạnh phổ biến đó là tình cảnh bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám .Trong số những trang văn cảm động về người nông dân phải kể đến hai truyện ngắn nổi bật : Chí Phèo của nhà văn Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân .Mỗi truyện đều có một cách kết thúc riêng ,song mỗi cách kết thúc đều mang những giá trị riêng. Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…Truyện ngắn Vợ nhặt kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới

II. Thân bài :
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
– Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực xuất sắc, một bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn; sáng tác mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Chí Phèo là đỉnh cao trong sự nghiệp của Nam Cao; truyện có kết thúc độc đáo, tô đậm được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
– Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh. Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân; kết thúc truyện đặc sắc, khắc sâu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm. 
2. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Chí Phèo
Khái quát nội dung tác phẩm Chí Phèo ( ngắn gọn )
Tóm tắt cuộc đời đầy bi kịch của người nông dân Chí Phèo ( ngắn gọn )
Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh Cái lò gạch bỏ hoang
+ “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân.
+ Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
+ Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
+ Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.

3. Về ý nghĩa của kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt
Khái quát nội dung tác phẩm “Vợ nhặt”( ngắn gọn )
Tóm tắt về cuộc đời nhân vật Tràng.( ngắn gọn )
Ý nghĩa đoạn kết với hình ảnh lá cờ bay phấp phới:
+ Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.
+ Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng.
+ Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
+ Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán đoán.

4. So sánh sự tương đồng và khác biệt của hai kết thúc truyện
– Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.
– Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.
5. Lí giải :
Có sự khác nhau như trên là vì:
– Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Nam Cao viết “Chí Phèo” năm 1942 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Kim Lân viết “Vợ nhặt” sau hòa bình lặp lại 1954 khi dân tộc ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là CM tháng 8 và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng CM giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử.
– Do khuynh hướng văn học và phương pháp sáng tác. “Chí Phèo”: khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao phản ánh hiện thực đen tối nhằm phê phán xã hội. Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. “Vợ nhặt”: khuynh hướng hiện thực cách mạng nên Kim Lân có thể nhìn thấy bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước cách mạng
– Do tài năng và tính cách sáng tạo của từng nhà văn. Cùng yêu thương tin tưởng con người nhưng Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Kim Lân lạị cho rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người nông dân vẫn có thể vượt lên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng.

III. Kết bài: Đánh giá chung về hai tác phẩm và tài năng nghệ thuật của các nhà văn.

Cảm hứng nhân đạo của ba tác phẩm: Chí Phèo (Nam Cao), Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Vợ nhặt (Kim Lân).
- Cảm hứng nhân đạo là tình cảm hướng đến con người, bảo vệ quyền làm người của con người. Những biểu hiện cụ thể của cảm hứng nhân đạo:
      + Tố cáo các thế lực chà đạp lên quyền sống của con người;
      + Cảm thông sâu sắc với số phận bị vùi dập, khốn khổ;
      + Nói lên ước mơ, khát vọng về quyền sống của con người.
    - Điểm tương đồng trong cảm hứng nhân đạo trong ba truyện ngắn của ba tác giả Nam Cao, Thạch Lam, Kim Lân: đều nói lên số phận bi thảm và khát vọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn của những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ, tiêu biểu qua các nhân vật Chí Phèo (tác phẩm cùng tên), chị em Liên (Hai đứa trẻ) và mẹ con anh Tràng (Vợ nhặt).   
-          - Nét riêng biệt trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo:
-                *Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao tập trung hướng tới bi kịch bị tước đoạt quyền làm người, quyền được sống lương thiện của con người (qua cuộc đời, số phận của nhân vật Chí Phèo). Từ bi kịch đó, nhà văn thể hiện:
-                + Sự cảm thông, chia sẻ sâu sắc trước cảnh ngộ người nông dân cố cùng bị lăng nhục, phát hiện và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người; đồng thời tố cáo sự bất công của xã hội đã hủy hoại nhân hình, nhân tính con người, xô đẩy họ đến đường cùng.
-                + Nói lên tiếng nói khát khao, ước vọng làm người lương thiện của người nông dân như Chí Phèo.
-              *Với truyện ngắn Hai đứa trẻ, nhà văn Thạch Lam thể hiện:
-                + Tấm lòng thương xót, cảm thông với những con người nhỏ bé như bị lãng quên giữa phố huyện nghèo xơ xác, cuộc sống buồn tẻ, vô vị qua việc miêu tả một cách chân thật cuộc sống mờ nhạt, tăm tối của con người phố huyện.
-                + Sự đồng tình, trân trọng ước mơ rất nhỏ bé bình thường của hai đứa trẻ qua việc miêu tả một cách tinh tế diễn biến tâm trạng chờ đợi đoàn tàu cũng như ước mơ, khát khao vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn của hai chị em Liên.
-                *Với Vợ nhặt, Kim Lân thể hiện:
-                 + Sự cảm thông, đồng cảm với những khổ nhục, tủi nhục đến cùng cực của những con người khốn khổ một cách sâu sắc qua việc miêu tả và thể hiện tâm trạng của mẹ con bà cụ Tứ một cách chân thật và xúc động trong tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Tâm trạng vui mà tội nghiệp, mừng mà tủi, vừa lo…
       + Mơ ước về một sự đổi đời: thể hiện ở “con đường thoát nghèo” mà tác giả hé mở cuối thiên truyện bằng hình ảnh cờ đỏ sao vàng phấp phới trong tâm trí Tràng.
       - Nhận xét, đánh giá chung: Cùng là cảm hứng nhân đạo nhưng cách thể hiện của mỗi tác giả trong mỗi tác phẩm khác nhau (qua cách khai thác vấn đề, miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật, cách tạo tình huống truyện ở từng tác giả… góp phần làm nên giá trị của tác phẩm). Đó là sự độc đáo, không lặp lại, tạo nên phong cách riêng trong sáng tạo nghệ thuật.
Anh/ Chị hãy cảm nhận hai đonạ thơ sau:
                        Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
                        Nhìn nắng hang cau nắng mới lên
                        Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
                        Lá trúc che ngang mặt chữ điền…
(Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử)
Và:      Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
                        Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
                        Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
                        Mường Lát hoa về trong đêm hơi
                        Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
                        Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
(Tây Tiến- Quang Dũng)
1. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm (0.5 điểm)
2.a. Đoạn thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (2.0 điểm)
- Nội dung (1.0 điểm):
+ Vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ xứ Huế buổi bình minh: thanh khiết, tinh khôi, sum suê, tươi tốt.
+ Tâm trạng: Khao khát ước mong, đắm say mãnh liệt hướng về tình yêu cuộc đời.
- Nghệ thuật (1.0 điểm)
+ Bút pháp lãng mạn trữ tình
+ Ngôn ngữ cực tả, trong sáng súc tích
+ Những hình ảnh thơ giàu sức gợi
+ Các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, phép điệp, so sánh…
2.b. Đoạn thơ Tây Tiến của Quang Dũng (2.0 điểm)
- Nội dung (1.0 điểm): Nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên và những cuộc hành quân của đoàn binh Tây Tiến.
+ Thiên nhiên: dữ dội, hoang sơ mà hùng vĩ thơ mộng.
+ Đoàn binh Tây Tiến: vất vả, gian lao, hành quân liên mien giữa núi rừng khắc nghiệt, anh hùng, lãng mạn hào hoa.
- Nghệ thuật (1.0 điểm)
+ Bút pháp lãng mạn, tinh thần bi tráng.
+ Sử dụng các thủ pháp: Tương phản, cường điệu, điệp từ,…
+ Ngôn ngữ: giàu tính tạo hình, giàu chất họa, chất nhạc.
3. Sự tương đồng, khác biệt (0.5 điểm)
-Tương đồng: thể hiện niềm gắn bó tha thiết qua hồi tưởng sâu sắc về cảnh, về người bằng thể thơ bảy chữ hiện đại.
- Khác biệt:
+ Trong Đây thôn Vĩ Dạ: Hồi ức về cảnh và người thôn Vĩ Dạ xứ Huế với những nét đặc trưng và mang đậm tâm tình, ước mong khao khát của thi nhân hướng về tình yêu, cuộc đời.
+ Trong Tây Tiến: Nỗi nhớ da diết về đồng đội về thiên nhiên hoang sơ dữ dội, hùng vĩ thơ mộng của miền Tây một thời Tây Tiến không thể nào quên. Đó là tình cảm đồng chí đồng đội, ân tình cách mạng trong kháng chiến chống Pháp.

Cảm nhận của anh, chị về hai đoạn thơ sau:
                    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
                    Mặt trời chân lí chói qua tim
                    Hồn tôi là một vườn hoa lá
                    Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
(Từ ấy – Tố Hữu, Ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo dục, 2011)
                    Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
                    Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
                    Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
                    Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
                                      (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2011 )
                                        
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, và 2 đoạn trích (0,5đ)
2. Cảm nhận (4đ)
a. Cảm nhận chung: (1đ)
- ND : + Diễn tả niềm vui, niềm hạnh phúc của tác giả trước những sự kiện, những bước ngoặt lớn trong đời.
           + Gửi gắm quan điểm nghệ thuật của 2 nhà thơ: Văn học nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nó không mâu thuẫn với các vấn đề chính trị xã hội.
- NT : Hình ảnh so sánh phong phú, gợi cảm, trí tưởng tượng bay bổng.
b. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Từ ấy: (1.5đ)
- ND: Niềm hạnh phúc, vui sướng của Tố Hữu khi được gặp gỡ ánh sáng Cách mạng.
- NT: Giọng điệu sôi nổi, chất lãng mạn trong trẻo.
c. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu: (1,5đ)
- ND: Diễn tả niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao của Chế Lan Viên khi được trở về với nhân dân, với ngọn ngồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
- NT: Giọng điệu tha thiết, giàu chất suy tư, thể hiện sự trải nghiệm của tác giả.
3. Đánh giá (0,5đ)
- Hai đoạn thơ đã kết tinh được vẻ đẹp thơ ca của 2 thi sĩ.
- Thể hiện tình yêu, sự gắn bó với nhân dân, với Đảng.

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
                                                (Tây Tiến – Quang Dũng)
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
                                                (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
- Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình
- Hình ảnh thiên nhiên và con người được gợi tả mộc mạc mà duyên dáng, đầy tình người: chiều sương, hồn lau, người độc mộc, hoa đong đưa …
- Điệp khúc: có thấycó nhớ thể hiện sự thôi thúc, đắm chìm trong nỗi nhớ sông nước mênh mang, hoà vào khung cảnh thơ mộng
- Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng
- Cảnh vật buồn, chia lìa
- Khung cảnh đẹp bị xoá nhoà giữa thực tại và ảo mộng
- Câu hỏi tu từ cất lên như tiếng kêu đầy da diết mong mỏi khắc khoải
Nét tương đồng và khác biệt:
Tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơ đều là sự cảm nhận của cái tôi trữ tình về khung cảnh sông nước quê hương
+ Chính cái tôi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung linh. Cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai hai thi sĩ
- Khác biệt:
+ Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trang chia ly, mong nhớ khắc khoải
+ Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về kỷ niệm kháng chiến
Lí giải sự tương đồng và khác biệt:

- Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa
- Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sông nước
- Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ

Đánh giá chung:

- Hai đoạn thơ là những cảm nhận khác nhau về khung cảnh sông nước quê hương
- Hai đoạn thơ thể hiện cho vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời cuộc, hai cảnh ngộ khác nhau

Cảm nhận của anh/chị về hình ảnh "chuyến tàu"- hoạt động cuối cùng của đêm khuya nơi phố huyện nghèo trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn 11 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục, 2007) và "tiếng sáo" trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài thuộc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập hai, NXB Giáo dục, 2009).
Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại cùng với nó.
Khi nói về tư tưởng nhân đạo có 4 ý mà em cần chú ý và áp vào mỗi văn bản rồi từ đó dựa vào tác phẩm tìm những điểm nổi bật để phân tích nhé!
1. Sự cảm thương sâu xa của tác giả đối vớ.i số phận khổ đau oan trái của con người
2. Phát hiện ra trong những con người đó vẻ đẹp khuất lấp, cái tính người không gì có thể phai nhoà được
3. Lên án xã hội, các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người
4. TRân trọng, nân đỡ những ước mơ, hi vọng vào một ngày mai tươi sáng
riêng với tác phẩm" hai đứa trẻ "- Thạch Lam
Những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo
- Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa tư tưởng nhân đạo đặc sắc. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa trong “cái ao đời bằng phẳng”, cuộc “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”. Từ chị em Liên, mẹ con chị Tí đến bà cụ Thi Điên, gia đình bác Sẩm, bác Siêu, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống.
+. Họ tồn tại trong một nhịp sống uể oải, tù túng , bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán, lặp đi lặp lại “ngày nào cũng vậy”, “chiều nào cũng thế”, “đem ra rồi lại dọn vào”, “gánh đi rồi lại gánh về”…
+. Đọc thấu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt, bằng phẳng như Huy Cận nói:
Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người
Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
(Quanh quẩn)
Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy, tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác: Xuân Diệu (tỏa nhị Kiều), Nam Cao (Sống mòn). - Không chỉ dừng lại ở sự xót thương, với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện Thạch Lam dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một hi vọng mong manh.
Ánh sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát đổi thay, khao khát cuộc sống có ý nghĩa hơn, dẫu chỉ là trong mong ước “Chừng ấy con người…họ”. Đặt trong hoàn cảnh XHVN những năm 30- 45, những khao khát ấy cũng chính là sự thức tinh ý thức cá nhân mới mẻ. Nói lên điều này, tác phẩm của Thạch Lam đã góp phần làm phong phú hơn cho tư tưởng nhân đạo của văn học giai đoạn này.
Không chỉ có vậy, ánh sáng đó vừa thể hiện cái nhìn của nhà văn về một hiện thực cuộc sống hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn mà còn góp phần lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải , lụi tàn
Đây là 1 vài ý mà em có thể tham khảo, cùng với hiểu biết của mình em có thể phân tích và bổ sung để hoàn thiện hơn nhé! Chúc em ôn thi tốt và có 1 kỳ thi hiệu quả!
Chí phèo
Thứ nhất giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Nhà văn miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc, Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vấn đề thế nhưng không phải ông không thương nhân vật của mình. Nhà văn càng nói rõ cái tàn ác của Chí bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Bởi vì tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia. Chính bởi đồng cảm với số phận ấy cho nên nhà văn mới dành nhiều tình cảm cho Chí đến thế. Nam Cao hiểu hết được những suy nghĩ của chí cả lúc say cho đến lúc tỉnh.
Thứ hai giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói Thị Nở là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Cô ta là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng, mả hủi thế nhưng lại có công thức tỉnh Chí. Tình yêu dù là bồng bột của Thị đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt là bát cháo hành của Thị Nở càng làm cho Chí ấm lòng và thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù.
Thứ ba, nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Kể cả khi ra tù thành quỷ dữ, Chí vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và mong muốn Thi sang ở nhà Chí một nhà cho vui. Và cái viễn cảnh sẽ diễn ra giống như ước mơ của Chí. Đó chẳng phải là bản chất tốt đẹp bấy lâu nay của Chí, và anh đang hướng đến một tương lai tươi sáng hay sao?. Chí muốn làm hòa với mọi người và từ đó phần người trong Chí được trỗi dậy. Ngay đến khi cái kết cục thảm khốc kia Chí vẫn cứ khẳng định sự thức tỉnh và đòi quyền làm người của mình. Giá trị nhân đạo là ở đấy.
Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận người nông dân trong xã hội cũ.
Cảm nhận của anh/chị về nét riêng của hai hồn thơ Nguyễn Bính và Xuân Quỳnh qua việc diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu ở hai đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng?
                (Tương tư- Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 NC, tập 2,  NXB Giáo dục , 2008, tr.55)
                                    Con sóng dưới lòng sâu
                                    Con sóng trên mặt nước
                                    Ôi con sóng nhớ bờ
                                    Ngày đêm không ngủ được
                                    Lòng em nhớ đến anh
                                    Cả trong mơ còn thức.
              (Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12 NC, tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.123)
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
Điểm chung:
Cùng thể hiên nỗi nhớ- một cảm xúc đặc trưng của tình yêu.
- Đều đặt nhân vật trữ tình trong mối quan hệ với không gian và thời gian để thể hiện trọn vẹn nỗi nhớ ở mức độ lắng sâu, da diết nhất,
- Đều thể hiện được tác động mạnh mẽ của nỗi nhớ đối với tâm hồn con người.
Điểm riêng
*Nội dung:
- Đoạn thơ trong Tương tư:
+ Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “bệnh” khó chữa của kẻ đang yêu.
+ Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
- Đoạn thơ trong Sóng:
+ từ quy luật của tự nhiên, tác giả khẳng định quy luật của tâm hồn: nỗi nhớ bao trùm không gian và thời gian, chiếm lĩnh cả tầng sâu lẫn bề mặt.
+ Em bộc lộ nỗi lòng trực tiếp: Lòng em nhớ đến anh. Nỗi nhớ ngự trị cả trong ý thức và tiềm thức.
 *Nghệ thuật:
Tương tư:
+ sử dụng thể thơ lục bát với âm điệu tha thiết, uyển chuyển
+ kế thừa những hình thức biểu hiện quen thuộc của ca dao như ẩn dụ, hoán dụ, phép điệp, câu hỏi tu từ, cách dùng đại từ ai
+ hình ảnh thơ  giản dị, gần gũi góp phân tạo nên không gian nghệ thuật thôn dã.
- Sóng:
+ xây dựng cặp hình tượng sóng – em vừa song hành, sóng đôi lại vừa hòa nhập, thống nhất
+  thể thơ năm chữ với nhịp ngắn, liền mạch dễ chuyển tải dòng cảm xúc dạt dào…, âm điệu bài thơ – khổ thơ là âm điệu của sóng – âm điệu của những con sóng lòng  nhiều dư ba…
+ Cách nói nghịch lí độc đáo: Cả trong mơ còn thức.
So sánh:
- Nguyễn Bính dành cả bài thơ để thể hiện nỗi tương tư - câu nào, khổ nào cũng thấm đẫm nỗi nhớ của chủ thể trữ tình, Xuân Quỳnh chỉ dành một khổ thơ nói về nỗi nhớ, đây cũng là khổ thơ có số câu dôi ra so so với các khổ khác trong bài.( 6 câu/ 4 câu)
Tương tư thể hiện nỗi nhớ và gương mặt tình yêu của chàng trai nơi thôn dã : vừa e dè, kín đáo lại vừa sâu sắc, mãnh liệt, chân thành. Sóng là bài thơ về tình yêu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người con gái khi yêu – Trong quá trình biểu hiện gương mặt tình yêu , Xuân Quỳnh đã giãi bày nỗi nhớ vừa dạt dào - sôi nổi, vừa đằm thắm - lắng sâu -da diết - thường trực… như những con sóng ngoài đại dương.
Đoạn thơ trong Tương tư cho thấy hồn thơ Nguyễn Bính mang nét riêng, không lặp lại khi tìm về cội nguồn thơ ca dân gian để thể hiện  nỗi nhớ tình yêu của những chàng trai thôn quê. Đó là chất quê mùa đáng yêu của một nhà thơ mới. Đoạn thơ trong Sóng cho thấy hồn thơ Xuân Quỳnh luôn dạt dào, da diết mãnh liệt trong khát vọng tình yêu và hạnh phúc đời thường.
Đánh giá
- Tình yêu là tình cảm rất nhân văn của con người, nỗi nhớ là trạng thái cảm xúc đặc trưng, làm nên sắc thái của tình yêu đôi lứa. Thể hiện nỗi nhớ của tình yêu, các nhà thơ đã thể hiện được chất nhân văn, màu sắc văn hóa trong đời sống tâm hồn con người.
- Những đóng góp, khám phá riêng của mỗi nhà thơ góp phần làm phong phú thêm mảng đề tài tình yêu trong thơ ca; qua đó cũng góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần con người.
            Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
                        Ta muốn ôm
                        Cả sự  sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng- Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập hai, NXB Giáo dục, 2011)
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng- Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2011)
Vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Vội vàng (in trong tập Thơ thơ- 1938) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng.
- Xuân Quỳnh là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Sóng (in trong tập Hoa dọc chiến hào- 1968) là tác phẩm thể hiện tâm tình của người phụ nữ làm thơ về đề tài tình yêu.
Cảm nhận hai đoạn thơ:
a. Đoạn thơ trong bài Vội vàng
- Đoạn thơ thể hiện niềm yêu đời, khát sống nồng nàn, mãnh liệt của Xuân Diệu. Ý thức được sự hữu hạn của đời người, tuổi xuân và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại nên nhà thơ đã vội vàng, cuống quýt để tận hưởng cuộc sống trần gian với tất cả những gì đẹp nhất (sự sống mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, …), ở mức độ cao nhất (ôm, riết, say, thâu, cắn), với trạng thái đã đầy, no nê, chếnh choáng.
- Các yếu tố nghệ thuật như: điệp từ ngữ, điệp cấu trúc câu, động từ mạnh, nhân hóa, nhịp điệu sôi nổi, cuồng nhiệt… tất cả góp phần thể hiện cảm xúc nồng nàn, khát vọng sống mãnh liệt của Xuân Diệu.
b. Đoạn thơ trong bài Sóng
- Đoạn thơ thể hiện khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, được gắn bó mãi mãi với cuộc sống, hòa nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu chân thành, mãnh liệt. Những con sóng tan ra không phải để biến mất giữa đại dương mà để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong những con sóng khác. Con người sẽ ra đi nhưng tình yêu vẫn còn ở lại giữa tình yêu cuộc đời. Đó cũng là cách để tình yêu trở nên bất tử.
- Thể thơ ngũ ngôn hiện đại, hình tượng sóng được sử dụng linh hoạt, sáng tạo để thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn thơ:
- Điểm tương đồng:
Hai đoạn thơ đều bộc lộ thái độ sống tích cực của hai thi sĩ trước cuộc đời. Đó là tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt. Đây là hai đoạn thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc- triết lí.
- Điểm khác biệt:
+ Sử dụng thể thơ tự do; vận dụng tối đa hiệu quả của các biện pháp nghệ thuật (điệp, liệt kê, nhân hóa,…); đoạn thơ của Xuân Diệu diễn tả cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt của cái tôi cá nhân muốn khẳng định mình một cách chói lói.
- Bằng giọng điệu thủ thỉ, tâm tình đầy nữ tính, thể thơ ngũ ngôn hiện đại, hình ảnh ẩn dụ; Xuân Quỳnh thể hiện khát vọng được tan hòa cái tôi vào cái ta chung của cuộc đời để tình yêu trở thành bất tử.
Vài nét về tác giả, tác phẩm:
- Thạch Lam là nhà văn lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam trước Cách mạng. Truyện của ông thường không có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Mỗi truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn.
- Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc in trong tập Nắng trong vườn (1938).
Giải thích ý kiến:
- Gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng là gợi lại những tâm trạng, nỗi niềm đã qua.
Gióng lên một cái gì đó ở tương lai là cách nói hình ảnh diễn tả những điều tươi đẹp sẽ đến trong tương lai.
- Ý nghĩa câu nói của Nguyễn Tuân: Hai đứa trẻ đã gợi lại những tâm trạng, nỗi niềm của các nhân vật về một quá khứ tươi đẹp, khác hẳn với cuộc sống tù đọng quẩn quanh, đồng thời thắp lên niềm tin, niềm hy vọng cho những kiếp người đang mòn mỏi nơi phố huyện nghèo.
Cảm nhận về hình ảnh đoàn tàu:
- Đoàn tàu xuất hiện trong tâm trạng chờ đợi khắc khoải của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nghèo.
- Đoàn tàu được miêu tả như một con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm phố huyện với ánh sáng từ màu xanh của chiếc đen ghi chập chờn như ma trơi, ánh sáng từ tay vịn bằng đồng và kền lấp lánh, từ những toa hạng sang chiếu rọi xuống lề đường, từ những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt…
- Đoàn tàu mang đến những âm thanh náo nhiệt: âm thanh của tiếng còi tàu, âm thanh của tiếng bánh xe rít trên đường ray, âm thanh ồn ào của hành khách…
- Đoàn tàu đến trong sự chờ đợi, háo hức và đi trong niềm tiếc nuối của chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo.
Nhận xét:
- Với chị em Liên, hình ảnh đoàn tàu gợi lại một quá vãng tươi đẹp. Đó là thời gian ở Hà Nội, ba Liên chưa mất việc, cuối tuần chị em Liên thường được đi ăn kem Bờ Hồ và uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.
- Với những người dân phố huyện, hình ảnh đoàn tàu cùng ánh sáng rực rỡ và âm thanh náo nhiệt đã xua đi cuộc sống tù đọng quẩn quanh nơi đây, thắp lên niềm tin, niềm hi vọng vào tương laic ho họ. Đồng thời con tàu còn là hình ảnh biểu tượng về cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc, nhiều niềm vui.
Đánh giá:
Bằng cảm nhận tinh tế, giọng văn nhẹ nhàng, thủ thỉ, tấm lòng cảm thương sâu sắc, Thạch Lam đã tạo được sức hấp dẫn đặc biệt cho truyện ngắn này.
Đề 2. Cái mới của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX làtính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường
                            ( Trích SGK Ngữ văn 12, trang 17,Tập I, NXBGD năm 2008)
   Cảm nhận nhân vật người đàn bà hàng chài của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ( Nguyễn Minh Châu) và nhân vật Hồn Trương Ba thuộc đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ( Lưu Quang Vũ), anh(chị) hãy làm sáng tỏ nhận định ...

1.Vài nét về tác giả, tác phẩm
  - Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau 1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983 là một truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một vùng ven biển miền Trung. Trong truyện ngắn này, tác giả đã khắc hoạ thành công nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ bất hạnh nhưng có nhiều phẩm chất cao quý.
- Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. Tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận , trong đó có vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống "bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo".
- Nêu ý kiến cần nghị luận
2.Giải thích ý kiến
 - Cái mới: là sự mới mẻ, tiến bộ, khác biệt với cái cũ đã qua, không còn phù hợp với hoàn cảnh mới;
 - hướng nội: là hướng vào bên trong;
 - số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường : đi vào đời tư của con người trong hoàn cảnh éo le, nghịch lí, đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống hằng ngày.
 - Thực chất của nhận định là khẳng định sự đổi mới của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 so với văn học giai đoạn 1945-1975.
3.Cảm nhận số phận hai nhân vật để làm rõ nhận định
  a.Cảm nhận số phận người đàn bà hàng chài
    *Nội dung
-Là một người phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh
+ Theo câu chuyện bà kể, từ nhỏ bà đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt”
+ Từ khi có chồng, cuộc đời bà trở nên vất vả : thuyền chật, con đông, có khi cả nhà “toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”...
+ Nghệ sĩ Phùng chứng kiến tận mắt bà bị chồng đánh trên bờ biển. Còn chánh án Đẩu thì nhận xét : “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng...”
     - Cách ứng phó trước số phận:
      +Mặc dù có một số phận bất hạnh nhưng người phụ nữ ấy lại là người sống kín đáo, hiểu đời và giàu lòng vị tha: Sắc sảo, hiểu đời ( nhận xét về Đẩu, Phùng); Giàu lòng vị tha ( lí giải, cảm thông về sự tàn bạo của chồng)
      + Phẩm chất tốt đẹp nhất của người đàn bà là lòng thương con vô hạn, giàu đức hi sinh: Cam chịu, nhẫn nhục khi bị chồng đánh; Xin với toà án đừng bắt mình phải bỏ chồng; Lí giải : tất cả là vì con.
   * Nghệ thuật :
  - Tình huống truyện độc đáo. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách
       - Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
 b.Cảm nhận số phận đầy bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba
   * Nội dung
    - Bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.
+Hồn Trương Ba muốn thoát khỏi xác hàng thịt để sống độc lập.
+Xác hàng thịt khẳng định là không được, còn chế giễu, khiến Hồn Trương Ba đau khổ, tuyệt vọng.
   - Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
   - Nỗi đau khổ của vợ, của cháu Gái và của con dâu Trương Ba.
   - Hồn Trương Ba đau đớn trước những đau khổ của người thân. Ông tìm được giải pháp là phải gặp Đế Thích.
   -Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích- Bi kịch "bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo".
+Đề Thích muốn Trương Ba phải sống bằng bất cứ giá nào.
+Trương Ba cương quyết từ chối cuộc sống hồn này- xác nọ.
+ Không thuyết phục được Trương Ba, Đế Thích đành thuận theo yêu cầu và ý muốn của Trương Ba.
 - Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
    + Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy :"chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày...","không cần đến cái đời sống do mày mang lại".
    + Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình: "không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo". Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề "sống như thế nào"là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
    + Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao... của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
  * Nghệ thuật :
    - Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của tình huống kịch;
    - Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.
    - Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.

  4.Nét tương đồng và khác biệt giữa hai nhân vật trong việc thể hiện tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường
      Nét tương đồng: Cả hai tác giả đều đặt nhân vật trong tình huống éo le, bất ngờ, ngang trái của cuộc sống, khai thác thế giới nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp. Dù nhân vật là con người bình thường hay mượn cốt truyện dân gian để thể hiện, các nhân vật đều có số phận đầy bi kịch. Nhưng cuối cùng, họ đều có cách ứng xử rất nhân văn, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao cả, làm xúc động lòng người.
      Nét khác biệt:
      -Số phận nhân vật người đàn bà hàng chài tiêu biểu cho hàng triệu người phụ nữ miền biển nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung thời hậu chiến. Đói nghèo, thất học...là nguyên nhân chính gây ra bi kịch gia đình. Qua số phận của bà, Phùng, Đẩu và chúng ta “ngộ” ra biết bao điều: cuộc sống không hoàn toàn như ta nhìn thấy bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bằng cái nhìn của người ngoài cuộc, ta chỉ thấy biểu hiện bên ngoài sự việc mà cái bên ngoài không phải bao giờ cũng thống nhất với cái bên trong. Chỉ có thể nhìn nhận một cách thấu đáo về con người cũng như về cuộc sống khi tự biến mình thành người trong cuộc, khi nhìn nhận không chỉ nên dùng lí trí để xét đoán mà phải dùng tấm lòng vị tha để mà cảm thông.
      - Số phận nhân vật Hồn Trương Ba được khai thác qua ba cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác, giữa Hồn với người thân, giữa Hồn với Đế Thích. Tha hoá, sống trong dung tục...là nguyên nhân gây ra bi kịch cá nhân và ảnh hưởng đến gia đình. Qua bi kịch của Hồn Trường Ba, nhà văn gửi gắm bức thông điệp đầy triết lí nhân sinh và thấm đẫm nhân văn: Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
    - Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo - Nam Cao, Ngữ văn 11)
  Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:
    - Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những câu nói trên.
Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và giới hạn đề.
  - Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Chí Phèo (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” là một trong những chi tiết đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
  - Kim Lân là một nhà văn thành công đặc biệt khi viết về người nông dân và cuộc sống nông thông trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn xúc động nhất của ông. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Chi tiết “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”  thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của truyện.
Về chi tiết “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao:
 - Về nội dung:
   + Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ Chí Phèo có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí.
   + Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức ở Chí khát vọng được sống cuộc sống của một người bình thường “Hắn thèm lương thiện”. Cử chỉ mộc mạc của thị gieo vào lòng Chí niềm hi vọng: thị sẽ là người mở đường dẫn Chí về với “cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
   + Câu nói Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui cho thấy khát vọng hạnh phúc, được yêu thương vẫn ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo sau bao nhiêu năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Chí không dám nói một lời “cầu hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọn cách nói lấp lửng thể hiện sự âu lo, phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh.
 - Về Nghệ thuật:
   + Cách  Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và cảnh ngộ của nhân vật.
   + Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Về chi tiết Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về trong Vợ nhặt- Kim Lân
  - Về nội dung:
   + Tràng là một chàng trai nông dân nghèo, ế vợ.
   + trước tình cảnh của người đàn bà bị cái đói xô đẩy, Tràng đã đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau đó, Tràng nói một câu với hình thức như một câu nói  đùa: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.  Câu nói đùa nhưng lại thể hiện niềm khát khao hạnh phúc có thật, mãnh liệt cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân nghèo ấy mà ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể dập tắt.
   + lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh phúc trong Tràng đước thắp lên từ câu nói đùa ấy lại thật sự bùng cháy. Tràng trân trong hạnh phúc của mình cũng như bằng tất cả những gì có thể, anh biến cuộc hôn nhân với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc.
  - Về nghệ thuật:
   + Là một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm lí của nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
   + Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Kim Lân
So sánh:
 - Sự tương đồng:
   + Đó là những câu nói đặc biệt, có ý nghĩa hêt sức quan trọng trong cuộc đời các nhân vật và có sức tác động diệu kì, tạo nên những khoảng khắc ngọt ngào hạnh phúc cho họ.
   + Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát vọng hạnh phúc ở những con người những tưởng như đã hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đời.
  - Sự khác biệt:
   + Ở Chí Phèo, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất người ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo, sau khi cảm nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở thị Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền lành, chân chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con quỷ dữ Chí Phèo.
   + Ở Vợ nhặt, chi tiết khẳng định sức mạnh của tình người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình yêu thương chiến thắng sự đe dọa của nạn đói và cái chết.
 Đánh giá chung:
Hai chi tiết nhỏ đã thể hiện khả năng thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn đối với vẻ đẹp và sức sống tâm hồn người nông dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Đó là sự tiếp nối xuất sắc của nam Cao và Kim Lân với mạch nguồn nhân đạo của văn học Việt Nam
Nét riêng trong cảm hứng nhân đạo thể hiện qua hai truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao.
1. Giới thiệu chung:
  + Thạch Lam là cây bút truyện ngắn xuất sắc trước cách mạng tháng Tám 1945. “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn”. Cũng như nhiều truyện ngắn khác của tập truyện, “Hai đứa trẻ” thể hiện cảm hứng nhân đạo rõ nét.
  + Nam Cao là nhà văn hiện thực tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông chân thực và thấm đượm triết lý nhân sinh.. “Chí Phèo” là truyện ngắn xuất sắc tiêu biểu cho sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám có giá trị nhân đạo sâu sắc.
2. Nét riêng trong cảm hứng nhân đạo trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” cuả Thạch Lam và “Chí Phèo” của Nam Cao
a. Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
- Thể hiện niềm xót thương của nhà văn với những kiếp người nghèo khổ, sông mòn mỏi, lay lắt nơi phố huyện nghèo (Mấy đứa trẻ,  mẹ con chị Tí, Bác Xẩm … và chị em Liên)
- Phát hiện những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo ở phố huyện (Cần cù, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu thương …)
- Trân trọng  ước mơ nhỏ bé, bình dị của người dân nghèo về một cuộc sống tươi sáng, có ý nghĩa hơn.
b. Chí phèo (Nam Cao)
 - Lên án xã hội tàn bạo làm tha hoá con người, chặn mọi đường sống của người dân vô tội.
 - Thể hiện niềm thông cảm trước số phận bi kịch của con người bị xã hội tước quyền sống, quyền hạnh phúc, đấy vào con đường lưu manh tội lỗi.
 - Khẳng định bản chất lương thiện, khát vọng hoàn lương của họ.
c. Mỗi tác giả thể hiện cảm hứng nhân đạo bằng nghệ thuật độc đáo
 - “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) không có cốt truyện, nhân vật không nhiều, biến cố ít …, diễn tả nội tâm sâu sắc, giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng …
 - “Chí Phèo” (Nam Cao): Bút pháp  hiện thực sắc sảo, miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc, giọng văn lạnh lùng như dồn nén cảm xúc.
3. Đánh giá chung:
Thạch Lam và Nam Cao thể hiện cùng đề tài, cùng  có cảm hứng nhân đạo nhưng bằng phong cách riêng đã tạo ra hai tác phẩm độc đáo- “Hai đứa trẻ”“Chí Phèo” - làm giàu có nền văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét