Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

Ôn thi bài Đất Nước

. KIẾN THỨC CƠ BẢN
  A. Tác giả
    1. TIỂU SỬ
        Sinh năm 1943, tại Thừa Thiên-Huế trong một gia đình cách mạng.
        Tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
        Năm 1964, trở về quê hương tham gia chiến đấu, từng bị địch bắt giam
        Sau năm 1975 hoạt động văn nghệ và công tác chính trị tại thành phố Huế.
        Ông từng là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, bộ trưởng Bộ Văn hoá – thông tin.
   2. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
        Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ, có những đóng góp nổi bật cho thơ ca Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
        Thơ ông giàu chất suy tư, trầm lắng, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến.
        Tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm…
 B. Đoạn trích ĐẤT NƯỚC
1.      HOÀN CẢNH SÁNG TÁC:
- Sáng tác vào mùa đông năm 1971, tại chiến trường Trị – Thiên. Đây là thời điểm mà cuộc chiến tranh chống Mỹ đang hồi quyết liệt.
- Trích chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971).
- “ Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm bị chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
2.      ĐỀ TÀI:
- ĐẤT NƯỚC là đề tài quen thuộc, phổ biến trong thơ ca, nhạc họa…
- Đối với các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, đề tài Đất nước được cảm nhận theo cách riêng mang dấu ấn của sự trải nghiệm bằng cuộc sống của chính mình.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã dóng góp một tiếng nói rất riêng về đề tài quen thuộc này.
3.      Bố cục: 2 phần:
- Phần 1: từ đầu đến Làm nên đất nước muôn đời à Cách cảm nhận và lý giải của nhà thơ về đất nước.
- Phần 2 ( còn lại): Nhà thơ khẳng định Đất nước là của nhân dân.
C.     NỘI DUNG
1.      Cảm nhận và lý giải của nhà thơ về đất nước
a.      Đất nước có từ bao giờ? Đất nước ở đâu?
        Đất nước có trong nhận thức, tình cảm của mỗi người như một điều hiển nhiên “ Khi ta lớn lên dất nước đã có rồi”.
        Đi tìm nguồn cội của Đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước có từ xa xưa:
·         Từ trong những câu chuyện cổ tích Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
·         Đất nước bắt đầu với những phong tục rất đẹp của dân tộc khi nền văn minh sông Hồng mới hình thành “ miếng trầu bà ăn”, “  tóc mẹ thì búi sau đầu”.
    + Hình ảnh “ miếng trầu” tượng trưng cho phong tục tập quán đẹp của của người Việt _ đó là miếng trầu của lòng hiếu khách “ Miếng trầu là đầu câu chuyện”, miếng trầu tình duyên thắm đượm” Miếng trầu nên dâu nhà người”, miếng trầu của tình vợ chồng, tình anh em…trong Sự tích trầu cau.
   + Hình ảnh “búi tóc” không chỉ là phong tục tập quán của người Việt mà còn là một quan niệm về thẩm mỹ của người Việt xưa.
·         Đất nước “lớn lên” từ những ngày đầu đánh giặc giữ nước của chàng trai Phù Đổng thuở xưa “ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
·         Đất nước bắt nguồn từ những vần ca dao tình nghĩa, từ lới sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta “ cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”à Lấy ý từ:
Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

Muối ba năm muối đương còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng nỏ xa
        Đất nước có trong những sự vật gần gũi, thân thương, bình dị gắn bó với đời sống của con người Việt Nam (Miếng trầu, búi tóc,cái kèo, cái cột, hạt gạo…).
ð     Nhận xét:
- Với những chất liệu lấy từ văn học dân gian, văn hóa dân tộc, từ nhũng sự vật nhỏ bé, quen thuộc trong đời sống, Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận Đất nước có cội nguồn từ xa xưa, có trong chiều sâu của nền văn hóa dân tộc, trong bề dày của văn học dân gian và ngay trong những sự vật gần gũi với mỗi người, mỗi gia đình. Đất nước trong cảm nhận của nhà thơ thật gần gũi, dung dị, đời thường.
- Qua đoạn thơ, tác giả bày tỏ niềm tự hào về một đất nước có một nền văn hóa lâu đời mang những nét đặc thù riêng.
b.      Đất nước là gì?
v     Đất nước là  không gian địa lý mênh mông, bao la:
- Trong không gian cụ thể, gần gũi, gắn bó với kỷ niệm, với tình yêu của mỗi người:
+ Đất là nơi anh đến trườngà không gian quen thuộc gắn liền với thời thơ ấu của mỗi người.
+ Nước là nơi em tắm à Không gian nhỏ bé,gần gũi trong đời sống, phải chăng còn gợi liên tưởng những giếng làng, những ao hồ, sông nước của làng quê VN?
+Đất nước là nơi ta hò hẹn…là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmàKhông gian gần gũi gắn liền với kỉ niệm tình yêu đôi lứa. Câu thơ mang hơi thở dân gian, gợi nhớ bài ca dao Khăn thương nhớ ai…
- Trong không gian mênh mông, bao la gắn liền với đời sống của một dân tộc àLà những không gian quen thuộc mà thiêng liêng, lớn lao:
+ Lãnh thổ của một quốc gia: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”/ Nước là nơi “con cá như ông móng nước biển khơi”àMượn lời bài dân ca Bình Trị Thiên nhà thơ cảm nhận về đất nước với niềm tự hào vô hạn về một quốc gia có chủ quyền. Ý thơ gợi nhớ bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong văn học nước nhà “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường kiệt.
      + Không gian  sinh tồn của cộng đồng dân tộc “ Đất nước là nơi dân
         mình đoàn tụ”.
v     Đất nước là thời gian lịch sử “ đằng đẵng” của quá khứ, hiện tại và tương lai:
- Là nơi phát sinh, phát triển của một cộng đồng dân tộc từ thuở sơ khai “ Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” àLấy chất liệu từ những huyền thoại của văn học dân gian.
- Là bề dày lịch sử dân tộc trong quá khứ của Những ai đã khuất/Những ai bây giờ…Dặn dò con cháu chuyện mai sauà Đất nước mang tính chất kế tục và vĩnh hằng.
v     Nhà thơ còn nhắn nhủ “ Hằng năm ăn đâu…..cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”à Ý thơ không chỉ là lời nhắn nhủ mà còn là “cầu nối” cho đoạn thơ sau.
v     Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:
- Lấy chất liệu từ văn học dân gian ( ca dao, dân ca, huyền thoại…)
- Tách rời hai thành tố ĐẤT/NƯỚC sau đó kết hợp lại để khẳng định đất nước rất bình dị, gần gũi với mọi người nhưng đồng thời cũng rất thiêng liêng, cao quý,toàn vẹn.
- Chất trữ tình- chính luận, hiện đại với thể thơ tự do.
c. Trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước “ Trong anh …..làm nên Đất nước muôn đời”
- Đất nước có trong anh và em, trong bản thân của mỗi con người “ Trong anh và em…hài hòa nồng thắm/ Khi chúng ta…vẹn tròn to lớn”à Đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm, là lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc, là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước.
-  Đất nước là máu xương của mỗi người “Em ơi em Đất nước là máu xương của mìnhàcách cảm, cách nghĩ mới mẻ của những nhà thơ thời kháng chiến:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay ( Hoàng Cầm)

Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy ( Xuân Diệu)

Ôi, Tổ quốc ta yêu như máu thịt…( Chế Lan Viên)

- Vì vậy mỗi người đề có trách nhiệm đối với Đất nước” Phải biết gắn bó và san sẻ/Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở…à Cách sử dụng từ ngữ gợi trách nhiệm cụ thể của mọi người đối với đất nước – xây dựng, bảo vệ đất nước, khi cần thiết phải biết hi sinh vì Tổ quốc.
- Điệp ngữ” phải biếtà Như một lời nhắn nhủ và cũng là lời tự nhủ.
- Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:
+ Giọng thơ nhắn nhủ, tâm tình, tha thiết.
+ Ngôn ngữ bình dị, gần gũi như một lời trò chuyện.
+ Chất trữ tình-chính luận
ð     Tác động đến tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ vùng đô thị bị tạm chiếm ở miền Nam.
2.      ĐẤT NƯỚC CỦA AI?
a. Nhà thơ khẳng định “ Đất nước này là đất nước của nhân dânà Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, là tư tưởng cốt lõi, cũng là đỉnh điểm của cảm xúc trữ tình của chương Đất nước. Đất nước này là đất nước của nhân dân vì:
v     Nhân dân là người làm nên những cảnh quan thiên nhiên của đất nước:
- Tác giả kể những tên núi, tên sông, địa danh: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm...--> tất cả đều xuất phát từ cuộc đời, từ số phận của nhân dân. Những cảnh quan thiên nhiên kì thú gắn liền với cuộc sống của nhân dân, nó chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc.
- Nhà thơ có phát hiện mới mẻ, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử trở nên thiêng liêng khi nó gắn với phẩm chất, tâm hồn, số phận của nhân dân: Gót ngựa Thánh Gióng đi qua….Chín mươi chín con voi…Những con rồng…Con cóc, con gà…Người học trò nghèo…..núi Bút, non Nghiêng”.
- Đoạn thơ quy nạp hàng loạt những hiện tượng cụ thể để đưa đến một khái quát sâu sắc :” Và ở đâu trên khắp…..hóa núi sông ta” -> Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước.
v     Nhân dân là người làm nên lịch sử của đất nước, là người gìn giữ, bảo vệ đất nước, là người truyền lại cho các thế hệ đời sau truyền thống văn hóa của dân tộc:
- Khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm không ca ngợi những anh hùng hữu danh, không điểm lại các triều đại hưng thịnh mà nhấn mạnh đến  những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
-  Không ai khác, chính nhân dân đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa (nghề trồng lúa nước), ngọn lửa “ Truyền lửa cho mỗi nhà….con cúi”, tiếng nói “ Truyền giọng điệu…tập nói”, bản sắc văn hóa các vùng miền “ Gánh theo tên xã tên làng…”…
- Và nhân dân cũng là người:“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” để tạo dựng chủ quyền, xây dựng và bảo vệ Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
v      Khi khẳng định “ Đất Nước là của nhân dân” nhà thơ ca ngợi, tự hào về những phẩm chất của dân tộc:
- Khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao “ Đất nước của ca dao thần thoại”.  Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. - Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước:
+ Say đắm trong tình yêu” Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”à Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em hóc anh ngồi anh ru.(ca dao)
+ Quý trọng tình nghĩa  “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”à Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng.( ca dao)
+ Kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh” Biết trồng tre….dài lâu”à Thù này ắt hẳn còn lâu/ Trồng tre thành gậy gặp đâu đáng què. (ca dao)
b.      Nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ:
- Đậm chất trữ tình- chính luận.
- Vận dụng sáng tạo ca dao, dân ca : không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao.
c. Liên hệ:
- Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã manh nha từ văn học trung đại ( Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu…).
- Trong văn học hiện đại, đặc biệt là văn học cách mạng, tư tưởng ấy được kế thừa và phát huy trên tinh thần của con người trong thời đại mới. Những nhận thức về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao.
- Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp them một thành công trong dòng thơ về đất nước thời kháng chiến chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân, về đất nước.
D.    NHẬN XÉT CHUNG:
1. Về nội dung:
-  Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện : lịch sử, địa lí, văn hóa,…
-  Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “ Đất Nước là của nhân dân”  
2.Về nghệ thuậtà Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích ĐẤT NƯỚC:  
-          Thể thơ tự do như văn xuôi.
-          Tách rời hai thành tố Đất và Nước.
-          Vận dụng sáng tạo nhiều chât liệu lấy từ ca dao, dân ca, truyện cổ, huyền thoại…
-          Dùng đại từ TA, EM, ANH linh hoạt, chuyển hóa vào nhau.
=> Chất trữ tình thiết tha, chất chính luân sâu sắc. 
       3.  Nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ về ĐẤT NƯỚC 
- Cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân.
- Vận dụng văn học dân gian, văn hóa dân gianà Tạo ra không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng của ca dao, thần thoại, truyền thuyết, văn hóa dân gianà nét đặc sắc thẩm mỹ của đoạn trích.
-  Vẫn mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức thể thơ tự do.
  E. Ý NGHĨA
        Bài thơ thể hiện một cách cảm nhận mới về đất nước của tác giả, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.
        Nhà thơ ca ngợi truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước đánh giặc của dân tộc và khẳng định, bộc lộ tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
II.  LUYỆN TẬP
1.      Phân tích các đoạn thơ sau đây trong bài thơ ĐẤT NƯỚC của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:

a.      Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi…
                    Đất Nước có từ ngày đó.
b.      Đất là nơi anh đến trường…
                    Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
c.       Trong anh và em hôm nay…
                    Làm nên Đất Nước muôn đời.
d.      Những người vợ nhớ chồng…
                   Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
2.Trình bày hoàn cảnh sáng tác và nội dung chính  của bài thơ Đất nước
         3.   Nêu những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Đất Nước.
        4.  Trình bày nét độc đáo, mới mẻ trong cách cảm nhận về Đất Nước của
              nhà thơ Nguyễn Khoa  Điềm.
        5.Trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và hoàn
cảnh sáng tác, mục đích sáng tác của trường ca Mặt đường khát vọng.
III. THAM KHẢO

1.Lời kể của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về hoàn cảnh ra đời tác phẩm  : “Chương V là một chương lớn. Nhà trường phổ thong chọn chương này để giảng dạy tôi nghĩ là hợp lí. Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền mien sau Tết. Đó là thời kì máy bay Mĩ đánh phá dữ dội. B52 giội liên tục, làm cho mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bơm nổ, bởi khói bom và mưa rừng. Có khi viết xong, một trận bom làm cho bản thảo bay tung tóe, lượm lại trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ có việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang tranh đấu ở trong thành phố. Nên nhân vật của tôi là anh và em. Đó là lời đằm thắm của một người con trai nói với một người con gái. Chúng tôi, mỗi người có một số phận khác nhau nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là số phận Đất nước. Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của bản thân.”
2. Qua bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm anh/ chị hãy làm sáng tỏ quan điểm Đất nước  của nhân dân của tác giả
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ như Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng với hai tác phẩm là trường ca “Mặt đường khát vọng” và bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Nguyễn Khoa Điềm cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thế hệ ông đã cảm nhận sâu sắc thời điểm lịch sử trang nghiêm nên đã để tâm huyết vào chủ đề lớn của thơ ca là đất nước. Và tất nhiên để phù hợp với nội dung phong phú, rộng lớn đó, phải có một hình thức có dung lượng lớn là trường ca. Cho nên nhiều trường ca đã ra đời trong giai đoạn văn học này mà nổi tiếng hơn cả là ba trường ca “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo, “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh và “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.
“Đất nước” là một đoạn trích thuộc phần đầu chương V – chương trọng tâm của trường ca “Mặt đường khát vọng”, (chương năm), là chương trong tâm của tác phẩm. Tác giả tập trung trong chương thơ này là những cảm nhận và suy nghĩ sâu sắc về đất nước: “Đất nước này là Đất Nước Nhân Dân”.
Nhận thức mới mẻ ấy cũng chính là sự lựa chọn, ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ đốivới đất nước và dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà.
Nguyễn Khoa Điềm kết hợp giữa trữ tình và chính luận, lối kết hợp này trong thơ giống Chế Lan Viên (thường các nhà thơ tự sáng tác những bài thơ dài và trường ca đều kết hợp giữa trữ tình và tự sự). Trữ tình – Chính luận phát huy đựơc mặt trí tuệ, thể hiện sự uyên bác với những kến thức sách vở triết lí, nếu biết khéo léo kết hợp với xúc cảm, với tri thứ nhỡn kiến thì sẽ tạo ra sự hấp dẫn lạ lùng cho thơ.
Ta có thể hình dung chính luận trong khúc trường ca này như một sợi dây: Đất nước trườngtồn trong chiều dài thời gian, trong chiều rộng không gian, trong phong tục tập quán, trong tâm hồn và tính cách của người Việt. Bằng sợi dây dẻo dai ấy, những hạt cườm trữ tình óng ánh, lung linh được xâu lại thành chuỗi cườm “Đất Nước muôn đời”.Ta hãy xem nghệ thuật xâu cườm dẻo dai, cần mẫn, khéo léo của thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Điệp ngữ “Đất Nước” vọng lên khúc nhạc thiêng liêng. Thiêng liêng về thời gian thăm thẳm “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, thiêng liêng với cổ tích, thiêng liêng với “miếng trầu bây giờ bà ăn”, thiêng liêng với sự trưởng thành về ý thức bảo vệ Tổ quốc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Nhờ “sợi chỉ” chính luận mà những “hạt cườm” của đời sống vật chất (miếng trầu, cây tre, tóc, cái kèo cái cột, hạt gạo…) và đời sống tinh thần (chuyện cổ tích, cha mẹ thương nhau…) được xâu lại tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác:
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tác giả chuyển từ những câu kể sang những câu đẳng thức, từ những chi tiết xa xôi đến những chi tiết gần gũi đậm đặc trữ tình. Ca dao thấm trong từng lời:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Nếu thời gian hiện lên trong “chuỗi cườm” trữ tình – chính luận thật là thiêng liêng thì không gian hiện lên thơ mộng, hùng vĩ:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
… Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Để mở rộng khái niệm đất nước, tăng cường bề dày, bề sâu của khái niệm này, tác giả điệp lại kiểu câu đẳng thức “Đất là…”, “Nước là…” nhưng các hình ảnh của xúc cảm, của ý tưởng đều mới, giống như những biến tấu trong âm nhạc vừa nhấn mạnh chủ đề, vừa mở rộng chủ đề gây ấn tượng mới lạ.
Luận lí của mạch chính luận là từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, từ cộng đồng đến cá nhân:
“Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Những suy nghĩ về đất nước trong mỗi cá nhân càng sâu sắc thì giọng điệu trữ tình càng thống thiết:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Để dẫn đến những suy luận về sự trường tồn của đất nước, nhà thơ đã huy động vốn kiến thức của sách vở, của đời sống, của lịch sử, địa lí, của truyền thuyết, của ca dao, của phong tục tập quán… Mỗi chi tiết đều có tính thẩm mĩ và được nuôi dưỡng trong xúc cảm của nhà thơ, cho nên suy luận thơ của tác giả vừa có sức thuyết phục về trí tuệ lại vừa truyền cảm.
Sang đoạn hai, nhà thơ phát triển và mở rộng chủ đề Đất Nước để dẫn đến chiều sâu của khái niệm này là “Đất Nước Nhân dân”.
Vẫn là mạch trữ tình – chính luận, nhưng trên sợi chỉ chính luận, ta nhận ra những hạt cườm có màu sắc và hình dạng khác. Trên kia là những hình ảnh của “Đất Nước đã có rồi” và đây là những hình ảnh của con người các thời đại “góp cho Đất Nước”. Phẩm chất thi sĩ biểu hiện ở sự lựa chọn những “hạt cườm” để xâu vào sợi dây chính luận ấy.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
 … Những tên đất, tên núi, tên sông, sự tích, những truyền thuyết đều gắn bó máu thịt trong một cơ thể thống nhất. Vừa mới thấy “những núi Vọng Phu” đâu như ở Bình Định (mà núi Vọng Phu trên đất nước ta nơi nào chẳng có) đã thấy “hòn Trống Mái” ở Sầm Sơn (Thanh Hoá), vừa mới thấy “gót ngựa của Thánh Gióng” suốt dọc đường từ Bắc Ninh đến Lạng Sơn đã thấy “những con rồng” xanh thẳm ở Nam Bộ (sông Cửu Long). Những “núi Bút, non Nghiên” ở xứ Quảng, những “con cóc, con gà” ở Hạ Long, nhưng “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” đều góp phần tạo ra “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Đất nước thống nhất trong máu thịt, trong xương tuỷ, trong tình cảm, trong ước vọng như thế, kẻ thù nào chia cắt được!
Nhưng đó chỉ là một khía cạnh tư tưởng chủ đề của khúc trường ca này. Những dòng khái quát sau đây mới là dòng mạch chính của chủ đề tác phẩm:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Rồi nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình với “em” mà tìm sự đồng cảm của hết thảy chúng ta:
“Em ơi em Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”
Càng nhìn sâu vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm thía với công lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Chính những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền” cho ta từ hạt lúa đến ngọn lửa, từ ngôn ngữ đến hành động:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân”
Như vậy là theo mạch chính luận và suy tưởng, tác giả đã dẫn dắt đến chiều sâu chủ đề khúc trường ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” mà còn muốn cho khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong cổ tích, trong ca dao dân ca. Khúc trường ca không bị khô khốc trong triết lí mà trở nên hồn nhiên, tươi mát, huyền ảo:
“Đất Nước của Nhân Dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”
“Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Bằng trữ tình – chính luận, tác giả đã khéo léo dẫn dắt đến chủ đề sâu sắc là Đất Nước Nhân Dân. Xúc cảm trực tiếp, mãnh liệt từ cuộc chiến đấu sinh tử của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ mà tác giả đã huy động tình cảm, trí tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, văn học, đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh thần kì của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Một “Đất Nước Nhân Dân” tươi đẹp và thần kì như thế sẽ chiến thắng bất kì kẻ thù xâm lược nào.
3.      Phân tích đoạn thơ: Khi ta lớn lên ….Đất nước có từ ngày đó
…….
 Giọng thơ thủ thỉ,chân thành mà sâu lắng ấy đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân - Đất Nước. Đất Nước đã có từ lâu,rất lâu rồi. Khi ta oa oa cất tiếng khóc chào dời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có rồi.Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”giờ còn đọng lại trong tiềm thức với cô Tấm ngoan hiền, với sự tích bánh chưng bánh dày, bà tiên nhân hậu hay mụ dì ghẻ độc ác,…Hình ảnh Đất Nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi ,vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người ,được nuôi dưỡng từ thưở thơ  
…..
Trong kho tàng văn học dân gian ,nhà thơ đã chọn ra hai câu chuyện để khắc hoạ hình ảnh đất nước bằng chính những cảm nhận sâu sắc của mình . “Đất Nước bắt đầu” một câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ tích cầu trau. Đó là câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn . “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất Nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” bắt nguồn từ thưở xa xưa _đó là truyền thống tốt đẹp. “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tố đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình . Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ nhữmg cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc . “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Câu thơ gợi nhắc truyền thuyết “Thánh Gióng” Làm ta nhớ đến một cậu bé lớn nhanh như thổi để lên đường đanh giặc Ân cứu nước.Một câu chuyện ngợi ca sức mạnh của tình yêu dân tộc và hình ảnh kì vĩ thánh gióng.Và đất nước ta cũng trưởng thành khi mọi người cùng nhau đồng lòng chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi.Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương , thử thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.



“Tóc mẹ thì búi sau đầu” Trong muôn vàn truyền thống đẹp ,nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng rất tinh tế đặc sắc :hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu _hình ảnh thật gần gũi ,thân quen in sâu trong nếp nghĩ ,gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ  nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo ,đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng

  .
 . Đất Nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Câu thơ gợi từ một ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc .Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa ,trọn tình,thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời . Và sự sinh thành, phát triển của Đất Nước song hàmh cùng với sự lưu truyền và phát triển của truyền thống tốt đẹp ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên” Đất Nước được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc”cái kèo, cái cột”nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ẫm gia đình, làng xóm, quê hương, đất nước.

 
ĐN hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt : ”Hạt gạo phải một nắng hai sương xay ,giã ,giần ,sàng” Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình lâu dài ,nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thưở sơ khai ,khi con người tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương .Con người lao dộng đã biết “xay ,giã ,giần,sàng” để tạo nên hạt gạo ,tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nước no ấm. Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chon lọc hình ảnh “xay ,giã ,giần , sàng”cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tưởng ,hình ảnh Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù ,sáng tạo của con người ,hình ảnh ấy hiẹn dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân ,trong tiếng chày ,trong máy xay với cuộc sống lao động bền bĩ dù vất vả ,lam lũ .Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền văn học Việt_văn hoá lúa nước. Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh hoạt là một Đất nước cần cù, sáng tạo trong lao động.

 
Cũng chính trong cuộc sống lao động sinh hoạt, nhà thơ còn khám ra sự hình thành, phát tiển ngôn ngữ dân tộc gắn liền với nguồn gốchình thành và phát triển của ĐN : Khi con người biết lao động tạo dựng cuộc sống chính là khi họ biết đặt tên cho những sự vật hình tượng gần gũi nhất “cái kèo ,cái cột”,và trong quá trình lao động ,trong sự tìm tòi khám phá ,sáng tạo nên những giá trị vật chất như hạt gạo ,họ đã sáng tạo nên những ngôn từ ghi lại quá trình lao động ấy “xay ,giã ,giần ,sàng”.Đây là kết tinh tinh tuý linh hồn của dân tộc . ĐN hình thành và phát triển cùng với sự hình thành tiếng mẹ thiêng liêng ấy. Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt ,Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo ,một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi , sức thuyết phục bằng những câu chuyện ,chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa giúp ta nhận ra Đất nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, những cũng bền vững muôn đời.

  
Trong đoạn thơ trên tg sủ dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca tục ngữ truyền thuyết cổ tích ko chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dtooc.từ "đất nc" ddc viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính.Với chín dòng thơ 85 chữ ,không hề có một từ hán việt ,Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người .Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ :tổng -phân -hợp. Sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm nên chất trữ tình-chính luận trong thơ NKĐ



Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt ,qua chiều sâu văn hoá, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện ,một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt ,trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời . Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống,nếp nghĩ qua kho tàng văn học dân gian ,qua bản sắc văn hoá ....Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể ,chứa đựng mơ ước,khát vọng ,quan niêm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiên lên thật sống động ,lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét